Làm mẹ là thiên chức thiêng liêng của người phụ nữ. Thế nhưng, đôi khi việc mang thai lại có ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe và tính mạng của người phụ nữ.
Thai trứng là một minh chứng. Bài viết này sẽ giúp bạn nâng cao kiến thức y học nhằm phòng bệnh cũng như phát hiện sớm, xử lý kịp thời khi chẳng may mắc phải.
Thai trứng là gì?
![]() |
Khi mang thai bạn nên đi khám thai định kỳ theo chỉ định của bác sỹ để có thể phát hiện những biểu hiện bất thường sớm nhất |
Thai trứng (chửa trứng) là tên gọi dân gian của bệnh gai nhau ứ nước. Bệnh này khá phổ biến ở nước ta. Số liệu thống kê của Bộ Y tế cho thấy, tỷ lệ người mang thai trứng chiếm khoảng 1/500 người có thai.
Riêng ở Bệnh viện Từ Dũ và Hùng Vương, tỷ lệ này cao hơn, vào khoảng 1/100, do bệnh nhân ở các tỉnh đưa về.
Cơ chế hình thành thai trứng
Thông thường, sau khi tinh trùng kết hợp với noãn sẽ trở thành trứng thụ tinh, phát triển thành thai nhi và các phần phụ như: nhau và túi ối.
Trong một số trường hợp, tế bào nuôi phát triển quá nhanh, tổ chức liên kết và các mao mạch của mạch máu rốn ở gai nhau không phát triển kịp. Gai nhau bị thoái hóa, phù nề tạo thành các túi chứa dịch dính vào nhau giống như chùm nho và chiếm phần lớn buồng tử cung. Hiện tượng này được gọi là thai trứng.
Hiện tại, các nhà khoa học vẫn chưa xác định được nguyên nhân gây ra hiện tượng này. Nhưng các nghiên cứu đã chỉ ra một số yếu tố làm tăng nguy cơ cho thai phụ như: lớn tuổi, sinh nhiều lần, suy dinh dưỡng (chủ yếu là thiếu đạm) vấn đề miễn dịch của cơ thể…
Phát hiện và điều trị như thế nào?
Rong huyết là triệu chứng thường gặp nhất, xảy ra sau khi trễ kinh vài tuần. Máu chảy có thể ít hoặc nhiều, thường là máu bầm đen, loãng, kéo dài. Bệnh nhân bị nghén nặng, nôn nhiều và kéo dài, thể trạng mệt mỏi, xanh xao, đôi khi xuất hiện phù…
Trứng có thể ăn sâu vào cơ tử cung, gây chảy máu ổ bụng. Khoảng 30% thai trứng lành tính biến chứng thành ung thư. Nếu không được chẩn đoán và điều trị kịp thời, thai phụ có thể gặp nguy hiểm đến tính mạng do băng huyết hoặc thủng tử cung.
Khi đã xác định thai trứng thì cần được xử trí càng sớm càng tốt. Nếu trứng chưa sẩy thì tiến hành nạo hoặc hút. Đối với phụ nữ trên 40 tuổi hoặc không muốn có thêm con thì có thể cắt bỏ tử cung để ngăn ngừa biến chứng ác tính.
Sau khi xuất viện, người bệnh phải được theo dõi liên tục, hai tuần/lần trong sáu tháng kế tiếp và tám tuần/lần trong tám tháng tiếp theo.
Trong thời gian theo dõi, người bệnh không được có thai. Bạn cũng cần thực hiện tránh thai ít nhất trong vòng hai năm để có đủ thời gian theo dõi về khả năng bệnh chuyển thành ác tính.
Để phòng bệnh, bạn cần ăn uống đầy đủ chất dinh dưỡng, không sinh quá nhiều và quá gần nhau, đi khám thai định kỳ theo chỉ định của bác sĩ. Trường hợp muốn sinh con khi tuổi đã lớn, bạn cần cân nhắc thật kỹ.
Theo BS Trần Quốc Long
▪ Thuốc xịt ngừa thai (10/07/2005)
▪ Cơn khóc co thắt ruột ở trẻ sơ sinh (09/07/2005)
▪ Ăn để tránh stress (09/07/2005)
▪ Kháng sinh có chữa được viêm xoang? (09/07/2005)
▪ Cây trúc đào (09/07/2005)
▪ Ho và khó thở (10/07/2005)
▪ Những yếu tố ảnh hưởng đến tinh trùng (10/07/2005)
▪ TP HCM chủ động phòng chống dịch cúm gia cầm (09/07/2005)
▪ Chứng gầy bệnh lý (09/07/2005)
▪ Một số bệnh lý đặc thù của nam giới (09/07/2005)