Nguyên tắc chung khi xử lý các vết bỏng nhẹ là phải làm theo quy định như chống choáng, nhưng không làm tổn thương lan rộng. Rửa sạch chỗ mới bị bỏng dùng thuốc chống phồng da, chống thoát huyết tương, bỏng bằng nước muối 20%. Thấm nước muối vào bông chấm nhẹ tay hoặc tưới cho sạch vết thương.
- Bôi hoặc đắp một trong các dung dịch sau:
+ Dung dịch đặc lá trắc bá.
+ Dung dịch đặc lá trầu không.
+ Dung dịch đặc lá khoai lang.
+ Dung dịch đặc lá cỏ nhọ nồi.
+ Dung dịch đặc lá bỏng.
+ Dung dịch đặc lá bàng.
Dùng một trong các loại lá trên rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt bôi lên chỗ bỏng hoặc đắp cả bã lên chỗ bỏng.
- Có thể bôi lòng trắng trứng gà, dầu cá hoặc mỡ trăn lên chỗ bỏng, hoặc dùng bột mai mực được nghiền mịn rắc lên vết bỏng, ngày dùng hai lần đến khi lên da non.
Bỏng đã bị loét và nhiễm trùng:
- Nước rửa vết thương: lá trầu không 20g, lá phèn đen 20g, nước 1,5l sắc còn 1l, rửa vết bỏng ngày một lần.
- Thuốc bôi: dùng dầu vừng, dầu lạc, mỡ trăn bôi để giữ vết thương mềm, nhuận, hoặc dùng lá mỏ quạ (hay bồ cu vẽ) một phần, nghệ vàng một phần. Các vị trên rửa sạch giã nát, vắt nước cốt bôi lên vết bỏng.
- Thuốc uống: kim ngân hoa 12g, lá cối xay 12g, sài đất 12g, bông mã đề 12g. Các vị thuốc trên rửa sạch đổ ba bát nước, sắc còn một bát chia hai lần uống trong ngày.
|