Cao xương dê còn được gọi là dương cốt, được nấu từ toàn bộ xương các loài dê phơi khô. Đông y cho rằng vị thuốc này có tác dụng bổ máu, rất thích hợp cho phụ nữ sau sinh cơ thể gầy yếu, ăn kém, sữa ít.
Cao xương dê tính ấm, vị mặn; đi vào các kinh can, tỳ, thận. Người ta có thể dùng xương dê phối hợp với xương các loài thú khác như hổ, báo, gấu, khỉ, chó, ngựa… để nấu thành cao làm thuốc bổ toàn thân. Liều dùng thông thường 10-20 g mỗi ngày.
Các loại cao động vật khác:
Cao xương hươu, nai
Bộ phận dùng làm cao là toàn bộ xương phơi khô. Cao xương hươu nai tính hơi ấm, vị mặn; vào kinh can và thận. Nó thường được dùng phối hợp với các xương thú khác như hổ, báo, gấu, khỉ, dê, ngựa… để nấu thành cao làm thuốc bổ chữa khí huyết hư tổn. Uống ở dạng cao mềm hay rượu, ngày 5-10 g.
Cao xương khỉ
Còn gọi là Hầu cốt, được nấu là toàn bộ xương các loài khỉ phơi khô. Cao này tính hơi ấm, vị mặn, đi vào thận, làm thuốc bổ máu, bổ toàn thân; thường dùng cho phụ nữ kém ăn, kém ngủ, xanh xao, thiếu máu, ra mồ hôi trộm. Dùng dưới dạng cao mềm hòa với mật ong, ngày 5-10 g.
Cao quy bản
Được nấu từ yếm rùa khô nên còn gọi là yếm rùa hay quy giáp. Cao quy bản tính lạnh, vị ngọt, mặn; đi vào các kinh thận, tâm, can, tỳ; có tác dụng chữa thận âm suy yếu, ù tai, nóng nhức trong xương, ho lâu ngày, di tinh, tay chân lưng gối đau nhức, bạch đới. Dùng dưới dạng thuốc sắc, bột, viên hoàn hoặc dạng cao. Nếu là dạng thuốc sắc, liều lượng trung bình mỗi ngày 12-24 g. Nếu là dạng cao, ngày dùng 10-15 g. Các trường hợp người âm hư mà không nhiệt thì không dùng.
Cao mai ba ba
Còn được gọi là miết giáp hay thủy ngư xác, giáp ngư, được nấu từ mai khô của con ba ba. Loại cao này tính lạnh, vị mặn, đi vào các kinh can, thận, tỳ, phế, được dùng làm thuốc bổ âm cho người lao gầy, lao lực quá độ, nhức xương, sỏi đường tiết niệu (tiểu ra sỏi), phụ nữ bế kinh. Sử dụng ở dạng bột, sắc hay cao mềm. Liều trung bình mỗi ngày 10-30 g. Các trường hợp không được dùng: âm hư mà không nhiệt, tỳ hư lại tiêu chảy, phụ nữ đang mang thai.
Ngoài ra, Đông y còn nhiều loại cao nữa như cao trăn toàn tính, cao khỉ toàn tính; các loại cao dán ngoài như cao rết, cao nọc rắn; đó là chưa nói đến các loại cao được chế biến từ dược thảo.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
▪ Dùng kháng sinh cho trẻ nhỏ (22/06/2005)
▪ Uống trà trong mùa hè (21/06/2005)
▪ Ăn uống - nỗi vất vả của bệnh nhân COPD (21/06/2005)
▪ Không đau tim nhờ... mụn trứng cá (21/06/2005)
▪ Tiêm kháng sinh vào bắp dễ gây xơ cứng cơ (21/06/2005)
▪ Phòng ngừa trẻ sinh thấp cân (20/06/2005)
▪ Bạn có nguy cơ bị ung thư da? (20/06/2005)
▪ Mướp - thức ăn, vị thuốc (20/06/2005)
▪ Bệnh lao xương (20/06/2005)
▪ Thực phẩm và chứng đau nửa đầu (20/06/2005)