Cây ngưu bàng là loại cây thảo lớn, thuộc họ cúc (tên khác: đại đao, ác thực, hắc phong, thử niêm) 2 năm, có thân thẳng, cao 1-2m, có khía và phân nhánh. Lá hình trái xoan, mọc thành hình hoa thị ở gốc và mọc so le ở trên thân, phiến lá to, rộng 50cm, gốc lá hình tim, đầu tù hay nhọn, mép có răng cưa hay gợn sóng, có nhiều lông trắng ở mặt dưới. Hoa đỏ hay tím nhạt hợp thành đầu, to 3-4cm, các lá của bao chung kéo dài thành mũi nhọn, có móc ở chóp. Quả bé, màu xám nâu có điểm hồng, có nhiều móc quặp, phía trên có một mào lông ngắn màu vàng.
Ngưu bàng tử (Fructus Bardanae) là quả chín phơi hay sấy khô và được dùng trong đông y.
Ngưu bàng căn (Radix Bardanae hoặc Grande Bardanae) là rễ thu hái vào mùa thu năm đầu hoặc mùa xuân năm thứ hai, phơi hay sấy khô ở 70oC.
Trong quả chứa 25-30% dầu béo, chất lignan (lappaol A, B, C, D, E, F, chất đắng actiin - glucosid), daucosterol, inulin. Rễ chứa inulin (45-50%), tinh dầu, acid stearic, polyphenol, polyacetylen, phytohormon, xyloglucan...
Tính vị và tác dụng:
Quả ngưu bàng có vị cay, đắng, tính hàn, có tác dụng trừ phong nhiệt, thanh nhiệt giải độc, thông phổi, làm mọc ban chẩn, tiêu thũng và sát trùng. Những người tỳ vị hư hàn, tiêu chảy không nên dùng.
Rễ ngưu bàng có vị đắng, cay, tính hàn, có tác dụng lợi tiểu (loại acid uric), khử lọc, làm ra mồ hôi, lợi mật nhuận tràng, hạ đường huyết, có tác dụng với một số bệnh ngoài da.
Công dụng:
Đông y chỉ dùng ngưu bàng tử để chữa cảm cúm, thông tiểu và chữa sốt, chữa sưng vú, cổ họng sưng đau, viêm phổi, viêm tai, thúc mụn nhọt, tràng nhạc nhanh vỡ và khỏi. Liều dùng 6-12g dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các thuốc khác.
Chữa viêm họng, đậu chẩn chậm mọc, sốt nóng: Ngưu bàng tử 8g, cát cánh 6g, kinh giới tuệ 6g, cam thảo 3g; sắc uống trong ngày. Nếu đậu chẩn đã mọc vẫn uống được nhưng không dùng cho người bị tiêu chảy, tỳ vị hư hàn.
Chữa thủy thũng, chân tay phù và cảm mạo: Ngưu bàng tử 8g sao vàng tán bột, chia uống 3 lần trong ngày, uống với nước nóng.
Chữa phù thận cấp: Ngưu bàng tử 8g (dùng nửa sống, nửa chín), bèo cái 8g. Trộn chung tán nhỏ, chia uống 3 lần trong ngày, uống với nước nóng.
Chữa cảm cúm (ngân kiều tán): Ngưu bàng tử 24g, kim ngân 40g, liên kiều 40g, cát cánh 24g, bạc hà 24g, cam thảo 20g, đạm đậu xị 20g, hoa kinh giới 16g, lá tre 4 g. Tán bột, lấy 24g hãm với nước sôi để uống, ngày 3-4 lần tùy theo bệnh nặng nhẹ.
Tây y dùng rễ (ngưu bàng căn) làm thuốc thông tiểu, ra mồ hôi, lọc máu khi bị tê thấp, sưng đau các khớp và bệnh ngoài da. Ở Đức, sử dụng rễ ngưu bàng để trị rối loạn tiêu hóa, đau dạ dày và ruột, thống phong (gút), thấp khớp hoặc làm thuốc ra mồ hôi, lợi tiểu lọc máu. Vừa uống vừa bôi ngoài da trị ngứa, vảy nến, chàm, nhiễm trùng da...
Canh dưỡng sinh gồm ngưu bàng căn, cà rốt, nấm đông khô được coi là thuốc chữa bách bệnh, có khả năng ngăn ngừa và trị một số bệnh ung thư; mỗi ngày dùng khoảng 30g ngưu bàng căn. Cuống lá và thân cây dùng cho bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường do có tác dụng hạ glucosa máu và tăng lượng glycogen trong gan.
|