Theo ông Nguyễn Trọng Nghĩa, Tổng thư ký Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, pháp luật hiện đã có quy định cho phép các ngân hàng được xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ, nhưng trên thực tế ngân hàng không thể chủ động tự xử lý được số tài sản này. Đầu tiên, do sự phối hợp chưa thật chặt chẽ với các cơ quan chức năng khác như công an, thi hành án, chính quyền sở tại. Tiếp theo, khi ký hợp đồng vay vốn, người vay đã chấp nhận giao nhà nếu không trả được nợ, song nhiều khi ngân hàng vẫn không tiến hành xử lý phát mại được vì thủ tục sang tên trước bạ quy định phải có sự đồng ý của chủ sở hữu. Tương tự, các trung tâm bán đấu giá tài sản cũng chỉ chấp nhận cho ngân hàng bán đấu giá khi có sự đồng ý của chủ sở hữu.
Về cách tính lãi nợ quá hạn do chậm thi hành án, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tín dụng (TCTD) được tự xác định mức lãi suất cho vay và thỏa thuận với khách hàng trong hợp đồng tín dụng, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% lãi suất cho vay trong hạn cũng được ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên, nhiều trường hợp cơ quan thi hành án chiếu theo các văn bản luật thi hành án không chấp nhận mức lãi suất thoả thuận này để xử lý nợ quá hạn đối với tài sản phát mại mà lấy lãi suất cơ bản của NHNN, mức lãi suất mang tính định hướng, thấp hơn nhiều so với lãi suất thực tế của các TCTD nên đã gây thiệt hại cho các TCTD.
Theo phản ánh chung, hiện còn có sự thiếu đồng bộ giữa quy định pháp lý trong hoạt động tín dụng và giao dịch dân sự. Đơn cử Điều 109 Bộ luật Dân sự sửa đổi quy định: tất cả các thành viên từ đủ 15 tuổi trở lên của hộ gia đình đều có quyền định đoạt tư liệu sản xuất tài sản chung có giá trị lớn của hộ gia định nhằm bảo vệ quyền lợi cho các thành viên. Tuy nhiên, về bản chất kinh tế quy định này chưa thực sự hợp lý vì có những thành viên đủ 15 tuổi (con cái) không có đóng góp nhiều cho khối tài sản chung nói trên cũng có quyền định đoạt, chiếm hữu và sử dụng sẽ gây khó khăn và nguy cơ mất an toàn cho ngân hàng trong quan hệ giao dịch với đối tượng hộ gia đình.
Trong khi đó, hướng dẫn về hoạt động giao dịch giữa ngân hàng và hộ gia đình, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP lại chỉ quy định gia đình chỉ cần số đông đồng ý, thống nhất bằng văn bản ủy quyền hoặc ký tên trên hợp đồng của các thành viên có đủ năng lực hành vi dân sự. Trên thực tế, trong giao dịch dạng này, ngân hàng phải đối mặt với khả năng thực hiện trái luật hoặc nếu khách hàng thiếu thiện chí, khi rủi ro dễ xảy ra nguy cơ bị tòa án tuyên hợp đồng vô hiệu.
Việc phát mãi tài sản thế chấp còn vướng trong thực hiện Thông tư liên tịch số 03/2001 với quy định về công chứng. Trong hợp đồng thế chấp để vay vốn thì được cơ quan này xác nhận nội dung "nếu bên vay không trả nợ đúng hạn thì ngân hàng tự phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn". Tuy nhiên, trên thực tế, cơ quan công chứng không công chứng hợp đồng mua bán, nên không làm được thủ tục chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản cho người mua, buộc ngân hàng phải khởi kiện ra tòa để thu hồi vốn.
Trong Hiến pháp có quy định về quyền có nhà ở của công dân, vì vậy để đưa người vay ra khỏi ngôi nhà (có thể là) duy nhất của họ là điều khó khăn cho ngân hàng khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Thông tư liên bộ số 12/2001/TTLB BTP-VKSTC quy định lại Phần IV "Người phải thi hành án không có tài sản giá trị nào khác ngoài nhà ở duy nhất của người phải thi hành án và gia đình thì khi kê biên, bán đấu giá, tùy vào điều kiện cụ thể của đương sự, sau khi thống nhất với VKS cùng cấp, cơ quan thi hành án có thể trích lại một khoản tiền để tạo điều kiện về chỗ ở cho người phải thi hành án và gia đình họ" . Như vậy, thực tế là ngân hàng sẽ phải "lo" cho con nợ một ngôi nhà khác, nghĩa là ngân hàng luôn chịu thiệt hại trong khi người vay đã cam kết rất rõ trong hợp đồng.
Theo kiến nghị, những quy định này cần phải được một cơ chế thay đổi phù hợp, chẳng hạn, giảm bớt các đầu mối, cơ quan tài phán khi bán tài sản bảo đảm, thế chấp khi người vay không hoàn được nợ. Đồng thời, cần có quy định cụ thể cho việc thi hành các bản án kinh tế liên quan đến các tổ chức tín dụng, tránh việc khách hàng lợi dụng kéo dài thời gian thi hành án. Mặt khác, cần xác định và phân loại nội dung vụ việc kinh tế hay dân sự, không nên yêu cầu ngân hàng phải xuất trình tài liệu xác nhận nợ giữa các bên vì bản chất của hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay mượn. Khi giải quyết các vụ việc tranh chấp hợp đồng tín dụng, pháp luật nên có quy định giải quyết theo trình tự rút ngắn để phù hợp với thông lệ quốc tế.
|