Là lễ hội của cộng đồng làng, để làm ada, già làng cùng các vị gia trưởng phải họp để định ngày cùng đưa ra "chỉ tiêu" đóng góp tùy theo mức được mùa cúng như năng lực kinh tế của dân làng.
Người Pakô trước đây thường sống trong những nhà dài, trong đó gồm nhiều bếp, nghĩa là nhiều hộ gia đình, thường quây quanh một sân lớn được dùng cho các sinh hoạt chung (của làng). Lễ cúng được tổ chức trước hết ở từng nhà. Mỗi bếp (hộ) mang lễ vật của mình đến trưng dọn ở moong - gian (buồng) ở chính giữa mỗi ngôi nhà dài dùng làm nơi cúng tế, tiếp khách và là chỗ ngủ (bắt buộc) cho những thanh niên chưa cưới vợ - để cúng. Như để tượng trưng cho linh hồn của những loài được cúng vọng, mỗi bếp trưng ra ở đây đủ các loại giống lúa và các loại cốc được trồng khác như kê, bắp, đậu, mè... cũng như các loại hoa màu khác như sắn, lang, đu đủ chuối... để vái mời dự hưởng những lễ vật được dâng cúng.
Nhưng người Pakô không chỉ tri ân mùa màng với những gì họ gieo trồng trên đất. Và lễ tạ ơn mùa màng của họ phần chính là để tạ ơn đất trời, nắng mưa, dông gió, sông suối, núi rừng, cây cối và cả ma quỷ.
Điều cầu mong chính ở cúng ada ấy là mỗi nhà mỗi bếp cũng như cả làng được bình yên, con người được mạnh khỏe, mùa vụ năm tới được bội thu. Và để làm tin, họ đã xin thần linh làm chứng trong cách cầu xin tựa như cách khấn âm dương của người miền xuôi: dùng hai nửa miếng trúc ngắn (khoảng 30cm) nắm thảy xuống, nếu cả hai cùng nằm ngửa là việc cầu xin đã được như ý, nếu không họ sẽ làm cho đến kỳ được nhưng không được quá 5 lần!
Người Pakô không có nhà làng nên sân làng được dành cho các sinh hoạt của cộng đồng, trong đó có việc bày biện lễ cúng cũng như đặt trụ đâm trâu. Với ada xong lễ cúng ở mỗi nhà, chủ nhà cũng như mỗi chủ bếp lại mang lễ vật đến sân làng để cùng già làng cúng lễ. Ngoài cồng chiêng (như lễ cúng ở nhà), lễ cúng ở sân làng còn dùng các loại nhạc cụ khác như kèn ống, kèn sừng trâu, đàn, phách gõ hòa tấu vang lên để lễ cúng thêm phần long trọng. Người nhà này đến thăm nhà kia được các chai, avó tiếp ở moong. Vừa uống rượu vừa ăn và vừa chuyện trò rôm rả. Trong cái tiệc vui đó nói như lời cư dân, nồng ấm hơn cả khi họ chia nhau miếng thịt con thú rừng săn bẫy được, họ thấy yêu thương nhau hơn và mối kết đoàn càng được thắt chặt hơn, chốn quê với cái rừng cái núi như càng đẹp hơn với họ. Nhưng ada sẽ đông vui náo nhiệt hơn nếu có khách mời đến từ các làng lân cận, trong đó có khách riêng của từng bếp từng nhà và khách của làng. Cái "chỉ tiêu" mà làng định ra trong lần họp tổ chức ada chính là mức đóng góp vật thực (cơm-xôi-rượu-thịt) của mỗi bếp cho mỗi nhà cũng như của mỗi nhà cho làng để đãi khách đến chung vui. Tạo nên sự rộn ràng, sôi nổi và hấp dẫn chính là những hình thức vui chơi, hát múa suốt trong lễ hội, nhiều khi kéo dài đến hai ngày đêm.
Cha-chấp, ba-bói, câr-lơi, các thể hát với giọng cao, giọng thấp, với các tư thế ngồi, đứng hay vừa mời rượu nhau vừa hát, với các ca từ tự ứng tác, hoặc trữ tình hay đối lý nhặt khoan, trầm bổng cùng với tiếng đệm của các loại nhạc cụ, với các điệu mút điệu nhảy lả lơi, cuồng nhiệt đã làm ada níu bước người trong - ngoài làng cùng đến chung vui. Làng nào cũng có ada, làng làm trước, làng làm sau, cùng đến với nhau, ada như một mùa vui kéo dài, thật tuyệt vời, như chính cư dân đã nói.
Ada, linh hồn của niềm vui, biểu trưng của tình yêu cuộc sống, nền móng của giao hòa để tồn tại với thiên nhiên, người Pakô gìn giữ ada như lưu giữ hạt giống để gieo trồng mùa vụ. Ngay đến ngày nay, dù cuộc sống đã có nhiều đổi thay, người Pakô vẫn duy trì lễ hội ada.
|