Quốc hội khóa I với bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Các Website khác - 23/12/2005
Ngày 9-11-1946, Quốc hội khóa I đã biểu quyết thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với 240/242 đại biểu tán thành.
Bản Hiến pháp gồm có Lời nói đầu, bảy chương và 70 điều.

Bản dự án Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã được soạn thảo xong và được công bố tháng 11-1945. Tiểu ban Hiến pháp do kỳ họp thứ nhất của Quốc hội (3-1946) cử ra gồm 11 thành viên, đã tiếp tục nghiên cứu dự thảo Hiến pháp. Ủy ban kiến quốc của Chính phủ cũng đã tự nghiên cứu và đưa ra một dự thảo. Căn cứ vào bản dự án của Chính phủ đã đưa ra, đối chiếu với bản dự thảo của Ủy ban kiến quốc, tập hợp những kiến nghị phong phú của toàn dân và tham khảo kinh nghiệm về Hiến pháp các nước ở Âu - Á, Tiểu ban đã soạn thảo một dự án Hiến pháp để trình Quốc hội. Trong phiên họp ngày 29-10-1946 Tiểu ban được mở rộng thêm 10 vị đại biểu cho các nhóm đại biểu trung lập, đại biểu Nam Bộ, đại biểu đồng bào thiểu số để tham gia tu bổ thêm bản dự án và Quốc hội khóa I tại kỳ họp thứ hai (từ 28-10 đến 9-11-1946) bắt đầu thảo luận từ 2-11-1946.

Qua nhiều buổi thảo luận và tranh luận sôi nổi để bổ sung, sửa đổi từng điều cụ thể, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp. Toàn thể Quốc hội đều công nhận cờ đỏ sao vàng là lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc không thể bàn cãi được và đã đứng lên nghiêm trang chào lá Quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thanh hát bài Tiến quân ca.

Ngày 9-11-1946, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với 240 đại biểu tán thành trên 242 đại biểu.

Bản Hiến pháp gồm có Lời nói đầu, bảy chương và 70 điều. Lời nói đầu đã ghi rõ thành quả của cuộc cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ của dân tộc trong giai đoạn mới và những nguyên tắc xây dựng hiến pháp:

"Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã giành lại chủ quyền cho đất nước, tự do cho nhân dân và lập ra nền dân chủ cộng hòa.

Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới.

Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.

Ðược quốc dân giao cho trách nhiệm thảo bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Quốc hội nhận thấy rằng Hiến pháp Việt Nam phải ghi lấy những thành tích vẻ vang của cách mạng và phải xây dựng trên những nguyên tắc sau đây:

- Ðoàn kết toàn dân, không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo.

- Ðảm bảo các quyền tự do dân chủ.

- Thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Với tinh thần đoàn kết phấn đấu sẵn có của toàn dân, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi, nước Việt Nam độc lập và thống nhất tiến bước trên đường vinh quang hạnh phúc, cùng nhịp với trào lưu tiến bộ của thế giới và ý nguyện hòa bình của nhân loại".

Hiến pháp - đạo luật cơ bản của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã quy định Chính thể (Chương I), Nghĩa vụ và quyền lợi công dân (Chương II), Nghị viện nhân dân (Chương III), Chính phủ (Chương IV), Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính (Chương V), Cơ quan tư pháp (Chương VI), Sửa đổi Hiến pháp (Chương VII).

Hiến pháp đã ghi rõ về chính thể:

"Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không

phân biệt nòi giống, gái trai,

giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo" (Ðiều 1).

"Ðất nước Việt Nam là một khối thống nhất, Trung Nam Bắc không thể phân chia" (Ðiều 2).

"Cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh. Quốc ca là bài Tiến quân ca. Thủ đô đặt ở Hà Nội" (Ðiều 3).

Về nghĩa vụ và quyền lợi công dân, Hiến pháp đã khẳng định:

"Mọi công dân Việt Nam phải: - Bảo vệ Tổ quốc; Tôn trọng Hiến pháp; - Tuân theo pháp luật (Ðiều 4) và có nghĩa vụ phải đi lính" (Ðiều 5).

"Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa" (Ðiều 6), "đều được bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình" (Ðiều 7); những dân tộc thiểu số "được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung" (Ðiều 8), "đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện" (Ðiều 9). "Công dân Việt Nam có quyền: - tự do ngôn luận; - tự do xuất bản; - tự do tổ chức và hội họp; - tự do tín ngưỡng; - tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài" (Ðiều 10). "Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam. Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái pháp luật (Ðiều 11). "Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm" (Ðiều 12). "Quyền lợi các giới cần lao trí thức và chân tay được bảo đảm" (Ðiều 13). "Công dân già cả hoặc tàn tật không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ em được săn sóc về mặt giáo dưỡng" (Ðiều 14). "Nền sơ học cưỡng bách và không học phí. Ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được Chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước" (Ðiều 15).

"Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu. Bỏ phiếu phải tự do, trực tiếp và kín" (Ðiều 17). "Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên... đều có quyền bầu cử" (Ðiều 18). "Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra..." (Ðiều 20) "... có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia..." (Ðiều 21).

Về Nghị viện nhân dân, Hiến pháp ghi:

"Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" (Ðiều 22). "Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài" (Ðiều 23). "Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm bầu một lần" (Ðiều 24). "Nghị viện nhân dân bầu một Nghị trưởng, hai Phó Nghị trưởng, 12 Ủy viên chính thức, 3 Ủy viên dự khuyết để lập thành Ban Thường vụ. Nghị trưởng và Phó Nghị trưởng kiêm chức Trưởng và Phó Trưởng Ban Thường vụ" (Ðiều 27).

"Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số Nghị viện đồng ý" (Ðiều 32).

"Khi Nghị viện không họp được, Ban Thường vụ cùng với Chính phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến" (Ðiều 38).

Về Chính phủ, Hiến pháp đã ghi:

"Cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc là Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa" (Ðiều 43). "Chính phủ gồm có Chủ tịch nước... Phó Chủ tịch và nội các. Nội các có Thủ tướng, các Bộ trưởng, Thứ trưởng. Có thể có Phó Thủ tướng" (Ðiều 44). "Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận... Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại" (Ðiều 45).

"Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết"... "Thủ tướng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách" (Ðiều 47). "Quyền hạn của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: a) Thay mặt cho nước; b) Giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái..., c) Ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, nhân viên nội các và các nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; d) Chủ tọa Hội đồng Chính phủ; đ) Ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết định...;

k) Tuyên chiến hay đình chiến theo như Ðiều 38 đã định" (Ðiều 49).

"Quyền hạn của Chính phủ: a) Thi hành các đạo luật; b) Ðề nghị những dự án luật ra trước Nghị viện; c) Ðề nghị những dự án sắc luật ra trước Ban Thường vụ trong lúc Nghị viện không họp mà gặp trường hợp đặc biệt...; e) Thi hành Luật động viên và mọi phương sách cần thiết để giữ gìn đất nước; g) Lập dự án ngân sách hằng năm" (Ðiều 52).

Hiến pháp cũng quy định hệ thống tổ chức và quyền hạn của Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính các cấp, hệ thống và quyền hạn của cơ quan tư pháp và những điều quy định về sửa đổi Hiến pháp.

Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một Hiến pháp dân chủ, phản ánh rõ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, khẳng định quyền dân tộc độc lập, thống nhất lãnh thổ và quyết tâm bảo vệ đất nước của toàn dân, xây dựng thể chế dân chủ cộng hòa, một chế độ bảo đảm quyền dân chủ tự do của mọi công dân không phân biệt nam nữ, đặc biệt ưu đãi đối với đồng bào các dân tộc thiểu số. Công dân Việt Nam được quyền trực tiếp bầu ra Nghị viện - cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đại diện cho quyền làm chủ đất nước của toàn dân và chịu trách nhiệm trước quốc dân đối với vận mệnh lịch sử của dân tộc, của mọi người dân trên con đường đấu tranh vì độc lập, tự do, hạnh phúc.

Bản Hiến pháp đã được Quốc hội thông qua và Quốc hội cũng đã quyết định không cần phải đưa hiến pháp ra trưng cầu dân ý trong toàn quốc nữa. Bản Hiến pháp đã trở thành chính thức từ 9-11-1946. Do chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đang lan rộng, cho nên Quốc hội đã biểu quyết chưa ban hành hiến pháp bằng một sắc lệnh và chưa thi hành hiến pháp ngay. Việc bầu Nghị viện nhân dân theo quy định của hiến pháp chưa thể tổ chức được. Quốc hội chưa hết nhiệm vụ mà cần phải tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu được Nghị viện nhân dân.

Theo: Lịch sử Quốc hội Việt Nam 1946-1960.