Cây hoa gạo, còn được gọi là mộc miên, cổ bối, ban chi hoa, anh hùng thụ..., có tên khoa học là Gossampinus malabarica (DC.) Merr., thuộc họ Gạo (Bombaceae). Vỏ thân có chứa nhiều chất nhầy; hoa chứa 85,66% nước, 1,38% chất đạm, 11,95% chất đường, 1,09% chất khoáng; hạt chứa 25% tinh dầu. Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, nước sắc hoa gạo có tác dụng ức chế trực khuẩn lỵ mạnh hơn so với Chloromycetine và Berberine.
Theo dược học cổ truyền, vỏ cây gạo vị cay, tính bình, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, hoạt huyết tiêu thũng, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như viêm loét dạ dày, đi lỏng, kiết lỵ, đau khớp cổ chân và khớp gối, viêm loét ngoài da, chấn thương do trật đả...;
Hoa gạo vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt lợi thấp, giải độc chỉ huyết, thường dùng để trị tiết tả (đi lỏng), lỵ tật (kiết lỵ), băng huyết, sang độc (viêm loét, nhọt độc), xuất huyết do chấn thương...
Rễ gạo vị ngọt, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, thu liễm chỉ huyết (giải nhiệt và thấp trong cơ thể, cầm máu và thu sáp, băng se vết thương) , thường được dùng để chữa viêm loét dạ dày, xích lỵ (kiết lỵ phân có máu), loa lịch (lao hạch), sản hậu nhũ thũng (sưng vú sau khi sinh con), tổn thương do trật đả.
Một số cách dùng cây hoa gạo chữa bệnh cụ thể như sau:
* Viêm khí phế quản cấp tính: Rễ gạo 30g sắc uống.
* Ho khạc nhiều đờm do phế nhiệt: Hoa gạo 15g, ngư tinh thảo (rau diếp cá) 15g, tang bạch bì 10g, sắc uống.
* Nôn ra máu: Hoa gạo 14 bông, thịt lợn nạc 100g. Hoa gạo rửa sạch, thái nhỏ; thịt lợn thái miếng. Hai thứ nấu canh ăn.
* Ho ra máu: Hoa gạo 14 bông sắc kỹ, chế thêm một chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày.
* Viêm loét dạ dày: 1. Rễ, hoa hoặc vỏ thân cây gạo 15-30g, sắc uống. 2. Rễ, hoa hoặc vỏ thân cây gạo 30g, rễ cây lưỡng diện châm (Zanthoxylum nitidum) 6g, sắc uống.
* Ly trực khuẩn, viêm ruột và dạ dày cấp tính, đi lỏng, đại tiện ra máu: 1. Hoa gạo 60g, sắc kỹ, chế thêm một chút mật ong hoặc đường phèn, chia uống vài lần trong ngày. 2. Hoa gạo 15g, kim ngân hoa 15g, phượng vĩ thảo (cỏ seo gà) 15g, sắc uống. 3. Hoa gạo 15-30g sắc kỹ, chia uống 3 lần trong ngày.
* Sưng đau vú sau khi sinh con: Rễ hoặc vỏ thân cây gạo 15-30g sắc uống.
* Phụ nữ đẻ không có sữa: Hạt cây gạo 10g, sao vàng sắc uống.
* Sốt cao trẻ em vào mùa hè: Hoa gạo 6g sắc kỹ, chế thêm một chút đường phèn, chia uống vài lần trong ngày.
* Viêm khớp mạn tính, đau lưng và đau gối mạn tính: 1. Rễ gạo 30-60g , sắc hoặc ngâm rượu uống. 2. Vỏ thân cây gạo 15g, sắc kỹ, bỏ bã, chế thêm một chút rượu vang, chia uống 2 lần trong ngày.
* Tiểu tiện không thông: Chất gôm cây gạo 10g, kim ngân dây 20g, hạ khô thảo 20g, sắc với 750ml nước, cô còn 300ml chia uống 3 lần trong ngày.
* Sưng nề do chấn thương: 1. Vỏ thân hoặc rễ cây gạo ngâm rượu xoa ngoài hoặc giã nát đắp vào vị trí tổn thương. 2. Vỏ thân cây gạo 100 g, củ nghệ vàng già 100g. Vỏ gạo cạo bỏ vỏ bẩn ở ngoài, băm nhỏ, giã nát với nghệ thái mỏng, dùng dấm thanh và rượu cho vào sao rồi chườm hoặc đắp vào vết thương khi còn nóng.
* Ngứa vùng hậu môn sinh dục: Vỏ thân cây gạo sắc lấy nước ngâm rửa nơi bị bệnh.
* Trĩ xuất huyệt: Hoa gạo 20g, quyển bá 10g, hòe hoa 15g, sắc uống.
* Bong gân:
1. Vỏ cây gạo 16g (cạo bỏ vỏ ngoài, sao rượu), lá lốt 16g (sao vàng), sắc với 750ml nước, cô còn 250ml, chia uống 2 lần trong ngày.
2. Lá náng, quả đu đủ non và vỏ thân cây gạo, ba thứ lượng bằng nhau, rửa sạch, giã nhuyễn, băng tổn thương.
3. Rau má tươi, vỏ thân cây gạo tươi, vòi voi tươi và bồ công anh tươi, bốn thứ lượng bằng nhau, rửa sạch, giã nát, bó vào nơi bị bệnh.
4. Lá náng 1phần, vỏ thân cây gạo gọt bỏ vỏ cứng thái nhỏ 1phần, dọc cây đu đủ 1phần. Ba thứ giã nát, sao với một ít rượu và nước tiểu trẻ em rồi chườm vào tổn thương.
* Gãy xương: Sau khi nắn chỉnh ổ gãy dùng vỏ rễ cây gạo tươi rửa sạch, giã nát, bó vào vị trí gãy xương, 2 ngày thay 1 lần.
* Vết thương chảy máu và băng huyết: Hoa gạo lượng vừa đủ, đốt thành than uống.
* Đau răng: Vỏ thân cây gạo 20g sắc đặc, ngậm nhiều lần trong ngày.
|