Từ cuối thế kỷ 20, các chuyên gia y tế đã nhận định, thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của các bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa, mà điển hình là tiểu đường. Ở Việt Nam những năm gần đây, tỷ lệ người mắc tiểu đường liên tục gia tăng, nhất là ở các thành phố lớn.
Năm 2002, Bệnh viện Nội tiết Trung ương công bố, tỷ lệ tiểu đường trong toàn quốc là 2,34%; ở các thành phố lớn là 4,4%. Như vậy, trong vòng 10 năm, bệnh đã tăng lên 4 lần.
Bệnh tiểu đường tăng lên theo nhịp độ tăng trưởng kinh tế, quá trình đô thị hóa, sự thay đổi lối sống… Trong các yếu tố nguy cơ gây bệnh, đa số có thể can thiệp được. Do đó, nếu biết cách phòng ngừa, nguy cơ gây bệnh sẽ đáng kể. Thậm chí khi đã mắc, bệnh nhân vẫn có thể duy trì cuộc sống tương đối bình thường nếu biết cách chăm sóc, theo dõi và điều trị thích hợp. Tuy nhiên, hiện có đến 50% các trường hợp tiểu đường không được chẩn đoán trong cộng đồng: Hơn nửa số người được phỏng vấn không biết gì về nguy cơ gây bệnh.
Tiểu đường là một bệnh mạn tính, đặc trưng bởi sự tăng đường huyết quá mức bình thường. Thức ăn khi vào cơ thể phần lớn sẽ chuyển hóa thành đường glucose - chất cung cấp năng lượng cho tế bào hoạt động. Trên bề mặt tế bào có thụ thể tiếp nhận insulin để kích hoạt sự vận chuyển glucose vào sử dụng trong tế bào. Nếu vì một lý do nào đó, tuyến tụy không thể tiết đủ lượng insulin thì đường không được tế bào sử dụng, hậu quả là tế bào “đói đường” trong khi lượng đường trong máu tăng cao; và khi bệnh nặng hơn thì đường xuất hiện cả trong nước tiểu.
Ở người bình thường lúc đói, đường máu không quá 110 mg/dl, khi trên 126 mg/dl thì được chẩn đoán là tiểu đường (qua 2 lần đo). Chỉ khi nào đường trong máu vượt trên 180 mg/dl thì mới có đường trong nước tiểu. Nhiều người đã rất chủ quan với bệnh này vì nghĩ chỉ khi nào tiểu ra đường mới mắc bệnh (thường phát hiện khi nước tiểu của mình bị kiến bu).
Triệu chứng cổ điển của bệnh tiểu đường là “4 nhiều”: ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều và gầy nhanh. Vì tế bào “đói đường” nên bệnh nhân tuy ăn nhiều nhưng vẫn gầy. Đường huyết tăng sẽ làm tăng áp lực thẩm thấu, gây khát và phải uống nhiều. Đường xuất hiện trong nước tiểu, gây lợi tiểu thẩm thấu. Ngoài ra, người bệnh còn mệt mỏi, nhìn không rõ, dễ bị nhiễm trùng, vết thương lâu lành, da khô, tê bàn tay và bàn chân, chuyện chăn gối có trục trặc…
Người ta chia tiểu đường làm 2 loại: type 1 là tiểu đường phụ thuộc insulin (tuyến tụy không còn tiết ra insulin nữa, trong điều trị phải dùng insulin ngoại sinh); type 2 là tiểu đường không phụ thuộc insulin (tuyến tụy còn tiết ra một phần insulin, trong điều trị có thể dùng thuốc viên hạ đường huyết). Trong đó, type 2 chiếm đa số với 90% tổng số bệnh nhân.
Vì triệu chứng bệnh ở giai đoạn đầu rất chung chung nên khó phát hiện, bệnh nhân chỉ có đủ triệu chứng “4 nhiều” ở giai đoạn rất trễ hoặc đã có biến chứng. Để phát hiện sớm tiểu đường, những người nguy cơ cao nên xét nghiệm tầm soát: những người trên 45 tuổi; người béo phì; trong gia đình có người bị bệnh đái tháo đường; bị bệnh tiểu đường lúc mang thai, sinh con nặng trên 4 kg, bị bệnh cao huyết áp, rối loạn mỡ trong máu. Những người có 2-3 yếu tố trên nên đi thử đường huyết định kỳ để có thể phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm, chưa có biến chứng.
Tiểu đường là bệnh mạn tính nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng người bệnh qua các biến chứng:
Biến chứng cấp tính: Hạ đường huyết thường xảy ra do dùng quá liều thuốc hạ đường huyết, bệnh nhân ăn ít đi, không đúng giờ giấc, bỏ các bữa ăn chính, vận động nhiều hơn bình thường, uống rượu khi bụng đói... Tăng đường huyết quá cao xảy ra khi dùng thuốc không đủ liều, bị stress, ăn uống quá độ, ăn thức ăn chứa nhiều đường, không vận động. Đường huyết tăng cao sẽ gây biến chứng hôn mê tăng áp lực thẩm thấu hoặc hôn mê nhiễm ceton acid. Các biến chứng cấp tính có thể dẫn đến tử vong nhanh chóng cho bệnh nhân.
Biến chứng mạn tính: Đây là những biến chứng hiểm nghèo và gây tàn phế, gồm biến chứng trên mắt (viêm võng mạc, đục thủy tinh thể), thận (xơ hóa mao mạch cầu thận, hoại tử ống thận), thần kinh (tai biến mạch máu não, bất lực…), da (nấm, loét bàn chân), tim mạch (cơ tim thiếu máu cục bộ), xương khớp, bệnh răng và lợi (bị sâu răng, viêm lợi).
Các bí quyết chữa trị tốt tiểu đường gồm: tìm hiểu kỹ về bệnh, có kế hoạch ăn uống thích hợp, tăng cường vận động thân thể (chơi thể thao, tập thể dục), dùng thuốc hạ đường huyết và insulin đúng cách, theo dõi sát lượng đường trong máu.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
▪ 4 động tác yoga giúp giảm mỏi mệt vùng lưng (30/05/2005)
▪ Sẩy thai rất dễ tái phát (30/05/2005)
▪ Vitamin D - vi chất tối quan trọng đối với trẻ nhỏ (30/05/2005)
▪ Nấm mỡ - món ăn bổ dưỡng và chữa bệnh (30/05/2005)
▪ Tư vấn sức khỏe (30/05/2005)
▪ Thuốc trị chứng bất lực sau phẫu thuật tiền liệt tuyến (28/05/2005)
▪ Người mắc bệnh hen suyễn không nên cười to (28/05/2005)
▪ Hóa chất trong đồ nhựa có thể gây hại cho thai nhi (28/05/2005)
▪ Người cao tuổi nên ăn uống như thế nào? (29/05/2005)
▪ Bí quyết trường thọ của người dân xứ Okinawa (29/05/2005)