Người ta ca ngợi sư đoàn kỵ binh bay và sư đoàn không vận số 1 (một lên Tây Nguyên, một ra Đường 9) có sức cơ động rất cao. Có thể nói khi đổ bộ xuống, chỉ trong thời gian ngắn có thể tăng gấp đôi, gấp 3 (đối phương ít) và có thể tăng nhiều hơn nếu đối phương đông để có thể bao vây tiêu diệt đối phương, không cho thoát.
Yểm trợ cho việc đổ quân còn có bom phát quang, dù là rừng núi cũng phát quang đủ để máy bay hạ cánh. Việc sử dụng máy bay trực thăng quy mô lớn trong chiến tranh là một phát minh mới trong thế kỷ 20 của Mỹ mà đối phương khó có thể đối phó được.
Quân đội nhân dân Việt Nam chưa từng đánh kiểu đó, cũng chưa học được kinh nghiệm đánh này của các nước trên thế giới (kể cả Nga) mà phải tự sáng tạo ra cách đánh. Trận Ia-đrăng đã làm cho quân kỵ binh bay của Mỹ thương vong nặng nề, chứng tỏ quyết tâm chiến đấu ý chí quyết thắng ngay từ trận đầu mà quan trọng đem lại niềm cổ vũ cho quân và dân miền nam và bắt đầu làm lung lay ý chí của giới cầm quyền Mỹ. Sau trận đó, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh quyết định tặng đơn vị đánh trận Ia-đrăng một lần hai Huân chương Quân công hạng nhất, ngay tại chiến trường.
Ý nghĩa của trận đánh đối với Bộ tư lệnh Tây Nguyên và Quân giải phóng là quyết đánh thắng quân Mỹ ngay từ trận đầu để cổ vũ khí thế đồng thời còn rút kinh nghiệm tạo ra cách đánh cho quân mình vì đây là trận đầu tiên Quân đội nhân dân Việt Nam chạm trán với quân Mỹ. Ý nghĩa còn vượt lên trên nữa khi nghe ông Mc Namara nói những suy nghĩ về chiến tranh Việt Nam đã gặp phải khó khăn ngay từ sau trận đánh Ia-đrăng. Ông là người sớm nhận ra những khó khăn thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Ông cho rằng sai lầm khủng khiếp của Mỹ là không hiểu Việt Nam.
Có học giả hỏi lấy tiêu chí gì để đánh giá một trận đánh, một cuộc chiến tranh?
Tôi trả lời: Lấy tiêu chí mục tiêu của trận đánh đó nhằm mục đích gì. Tất nhiên, trong chiến tranh phải so sánh số thương vong của hai bên. Chúng tôi quý sinh mạng của từng người chiến sĩ nhưng đánh với quân Mỹ có nhiều bom đạn, hiện đại đến như thế thì số thương vong của chúng tôi cao là dễ hiểu và khó tránh khỏi, nhưng điều quan trọng là chúng tôi phải tiêu diệt được quân Mỹ, mà nói tiêu diệt quân Mỹ thì ông Tua-ri-xơn có lúc hỏi nghĩa là thế nào. Tôi nói một tiểu đoàn bị tiêu diệt 70% số quân trở lên là đã bị tiêu diệt và Tua-ri-xơn nói giờ tôi mới hiểu từ tiêu diệt. Chúng tôi còn bảo vệ được lực lượng của mình để tiếp tục chiến đấu, còn tìm được cách đánh có hiệu lực, và làm cho quân Mỹ thất bại trong chiến lược "tìm diệt và đánh gãy xương sống của Việt Cộng".
Khi chiến tranh đang diễn ra, người ta nói rằng Mỹ là siêu cường, Việt Nam là một nước nhỏ, Mỹ không thắng đã là thất bại. Về trận đánh, rõ ràng trận Ia-đrăng Mỹ đã thất bại. Số thương vong, Mỹ công bố chết 309 người, chúng tôi nhiều hơn một chút nhưng chúng tôi đạt được mục tiêu chúng tôi đã đề ra đó là chẳng những đã tiêu diệt được quân Mỹ mà còn tạo ra được cách đánh. Đồng thời trận đánh đó còn tác động tới ý chí, cả vấn đề chiến lược của cuộc chiến tranh, làm cho Bộ trưởng quốc phòng Mỹ bắt đầu dao động về cuộc chiến đấu này.
Có người hỏi Trung tướng đánh giá về cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968 thế nào?
Tôi nói: Đó là cuộc tiến công đồng loạt trong hai đêm đánh vào quân địch ở 41 thành phố, thị xã, đưa chiến tranh vào thành thị trên quy mô lớn. Đây là một phương thức tiến công mới, chưa từng xuất hiện trong lịch sử chiến tranh trên thế giới. Cuộc tiến công đồng loạt đó làm cho Westmoreland hoàn toàn bị bất ngờ, làm đảo lộn thế trận. Vì ông ta nói rằng đã đẩy được quân chủ lực đối phương ra biên giới, gần như đánh gãy xương sống Việt Cộng. Giờ xương sống của Việt Cộng chẳng những không gãy mà còn mạnh lên, còn có thể đưa quân chủ lực vào Sài Gòn, vào Huế, giữ Huế trong 25 ngày.
Đó là một sự thật và cuộc tiến công đồng loạt đó làm rung chuyển nước Mỹ, làm giới cầm quyền Mỹ phải thảo luận, nên tiếp tục cuộc chiến tranh thế nào. Phía chúng tôi có khuyết điểm là kéo dài cuộc tiến công vào thành thị, về sau bị thương vong nặng nề, nhưng dù có thương vong như vậy thì thắng lợi của chúng tôi Mỹ không thể làm đảo ngược được.
Ngày 24, 25-3-1968, Tổng thống Mỹ Johnson phải họp Hội đồng những nhà chiến lược khôn ngoan nhất nước Mỹ gồm 16 người trong đó có 12 người (chủ yếu là các nhà chiến lược diều hâu) phát biểu rằng, đã đưa cho ông Westmoreland hơn 40 vạn quân, đánh nhau ba năm mà không bảo vệ được sứ quán của Mỹ ở Sài Gòn, giờ ông ta còn đòi tăng thêm 20 vạn nữa thì bao giờ mới đưa lính Mỹ về được. Do vậy, phải rút quân Mỹ về, phi Mỹ hóa cuộc chiến tranh.
Tổng thống Johnson rất buồn và phải chấp nhận ý kiến đó, tuyên bố không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ lần thứ hai, tuyên bố không tăng thêm 20 vạn quân, triệu Westmoreland về nước mà báo chí lúc đó gọi là cách chức bằng cách đá hất lên, về làm tham mưu trưởng lục quân Mỹ, ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra Bắc Việt Nam, bắt đầu chấp nhận đàm phán.
Tổng thống Nixon được gọi là diều hâu lên thay Johnson cũng phải thực hiện từng bước rút quân. Mc Namara sang hội thảo với Việt Nam từ năm 1995 đến 1997 đều nói rằng từ sau Tết Mậu Thân không một ai trong giới cầm quyền và quân sự của nước Mỹ nói muốn giành chiến thắng bằng quân sự trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, Nixon phải nói rằng rút quân trong danh dự. Và năm 1969, Nixon đã cho rút sáu vạn, năm 1970 rút 18 vạn, năm 1971 rút 13 vạn quân... Chúng tôi bị thương vong nặng nề nhưng số quân Mỹ rút ra như thế nên so sánh lực lượng trên chiến trường vẫn đem đến cho chúng tôi lợi thế rất lớn. Vì thế, chúng tôi đánh giá cuộc tấn công Tết Mậu Thân là một thắng lợi quyết định, tạo ra bước ngoặt trong chiến tranh đánh bại ý chí của giới cầm quyền Mỹ muốn giành chiến thắng quân sự trong cuộc chiến tranh này, mặc dầu còn rất gay go và quyết liệt.
Về sau này trong cuộc đàm phán có một vấn đề rất khó là quân Mỹ phải rút ra, quân Bắc Việt ở lại. Điều đó rất khó chấp nhận đối với quân đội Sài Gòn và chính quyền Sài Gòn, thậm chí ngay cả với Mỹ. Nhưng sự thật, vì đã thất bại nên phải tuyên bố rút quân Mỹ về lấy tù binh ra, không có cách nào để từ chối điều khó chấp nhận ấy. Nixon trong tài liệu được giải mã của Larry Berman đã nói rằng: quân Bắc Việt Nam là người Việt Nam nên có thể vào Việt Nam, đó là một sự thật. Tất nhiên, đến lúc này ông ta mới nói như vậy. Còn từ trước tới nay, Việt Nam luôn là một nước thống nhất, không có hai nước Việt Nam, nếu có chỉ là chính quyền Mỹ muốn chia cắt Việt Nam.
Khi thảo luận trong cuộc đàm phán ở Paris, chúng tôi thường nói nước Việt Nam là một, một tiếng nói, một nền văn hóa, một dải đất, chưa bao giờ có hai nước Việt Nam. Vance lúc đó là phó đoàn sau này là ngoại trưởng Mỹ, có nói rằng nếu chỉ nói như các ngài thì thế giới giờ đây phải có hàng nghìn nước vì nhiều người có tiếng nói riêng, có văn hóa riêng nhưng vẫn không thành một nước, nhưng các ngài có một thực tế lịch sử là chưa có hai nước Việt Nam và đồng thời có luật pháp quốc tế là hội nghị Geneva năm 1954 có cả Mỹ tham gia. Hội nghị long trọng công nhận độc lập chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam nên Việt Nam là một nước thống nhất đã được luật pháp quốc tế công nhận. Chúng tôi phải trở lại với thực tế đó.
Một thực tế nữa là kết thúc cuộc chiến tranh . Quân Mỹ đưa 327.000 quân vào Triều Tiên, một bên là quân Mỹ, một bên là quân Bắc Triều Tiên và một triệu quân chí nguyện của Trung Quốc đánh nhau trong ba năm rất ác liệt, thương vong cả hai bên nặng nề nhưng kết cục Triều Tiên vẫn bị chia cắt ở vĩ tuyến 38, hiện nay quân Mỹ còn ở Hàn Quốc 37 nghìn.
Ở Việt Nam, Mỹ đưa vào 545 nghìn, chiến đấu từ 1965 đến 1972, kết quả quân Mỹ phải rút hết, quân đội chính quyền Sài Gòn sụp đổ, Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Đó là kết quả rõ rệt của cuộc chiến tranh, từ tiêu chí đó xem xét ai đạt được mục tiêu trong chiến tranh mới đánh giá được thắng lợi hay thất bại, không thể đơn giản là chỉ so sánh về thương vong của hai bên.
Tất nhiên, trong cuộc chiến tranh này, Mỹ đã dùng máy bay ném bom chiến lược B.52, chất độc da cam, nhiều bom đạn, kỹ thuật tiên tiến, có thể nói rằng hơn cả trong chiến tranh thế giới lần thứ 2, như vậy làm sao nước chúng tôi không bị thương vong nhiều, đó là điều khó tránh, nhưng chúng tôi thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập tự do" nên dù phải hy sinh chúng tôi vẫn chiến đấu. Nhưng nếu hy sinh không thì là vì trí tuệ Việt Nam, nghệ thuật quân sự, biết kết hợp quân sự chính trị và ngoại giao nên chúng tôi mới đi đến thắng lợi cuối cùng. Đó là chiến thắng của cả ý chí và trí tuệ. Tuy nhiên, chúng tôi còn được sự ủng hộ rộng lớn của nhân dân thế giới và sự ủng hộ có hiệu quả của Liên Xô và Trung Quốc lúc đó. Chúng tôi đánh giá cao và biết ơn.
Một ví dụ khác, Thụy Điển là một nước trung lập, nước tư bản không phải là một nước cộng sản nhưng đã ủng hộ mạnh mẽ cuộc chiến đấu của chúng tôi. Thậm chí Thủ tướng Olof Palmer còn xuống đường biểu tình và Thụy Điển nói rằng cuộc chiến đấu của Việt Nam là đại diện cho lương tri của nhân loại. Cuộc chiến đấu của chúng tôi đã được sự ủng hộ rộng lớn của nhân dân thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. 200 trường đại học Mỹ có phong trào phản đối chiến tranh. Đó cũng là một nguồn tiếp sức cho chúng tôi.
Có người hỏi có thể nói Mỹ chỉ thua về chính trị hay vì chính trị khó khăn chứ không thua về quân sự.
Trong thời đại ngày nay, chính trị và quân sự gắn liền với nhau; chính trị chi phối quân sự, chính trị còn là một lực lượng, một sức mạnh chứ không phải chỉ có quân sự. Phải hiểu đúng như thế mới thấy được cái mới, thấy cách mạng thông tin bùng nổ, phong trào cách mạng trên thế giới có một sức mạnh to lớn, nhân dân thế giới phân biệt đâu là chính nghĩa đâu là phi nghĩa. Mỹ tuy là một siêu cường nhưng không thể sống biệt lập mà phải có bạn bè và chính phủ Mỹ phải trả lời cho nhân dân Mỹ tại sao Mỹ tham gia vào cuộc chiến tranh lại bị thế giới phản đối đến như vậy, cho nên không thể nói chỉ thua về chính trị chứ không thua về quân sự; không thua về quân sự, sao Mỹ lại phải đơn phương rút hết quân?
Tôi cho rằng trong cuộc chiến tranh này Mỹ đã thất bại cả về chính trị, quân sự và ngoại giao, đó là điều rõ ràng. Ở cuộc hội thảo này không ai phải tranh cãi nhiều vấn đề này. Chiến tranh đã qua đi, để lại cho hai nước chúng tà bài học: hiểu biết lẫn nhau, hòa bình và hữu nghị. Trung tướng Moore bắt tay tôi và nói rằng: Bây giờ chúng ta đã là bạn của nhau, và nên mãi mãi là bạn của nhau.
|