Những mảnh đời… treo
Các Website khác - 06/10/2008

Chiều thu chạng vạng, bóng núi ập xuống những đường cong gồ ghề dài ngoằng. Từng vựa đá sắc lẹm đùn ra dưới cơ man sơn tàn lở loét. Mặt đất được rang lên sau tiếng nổ mìn chát chúa, màn trời đông đặc lại, tựa hàng trăm ngọn nham thạch phun trào để khai phá một kỷ băng hà mới. Hơn thập kỷ qua, cả vùng non thiêng chất ngất ở Kim Bảng (Hà Nam) đang bị con người san thành bình địa.

>> Lại sập mỏ đá, 3 người chết tại chỗ

Nhọc nhằn lắm thay

Nắng lạc xạc rớt xuống một vùng cây tịnh gió. Càng lên cao, đường núi lốc nhốc, hẹp dân, ta luy bổ vỉa khoét lưng chừng, nhơm nham, dựng lên các thành vách nhớp nháp đá răm, thăm thẳm.

Phải vào sâu hơn mới đặt được mìn, anh Lê Hoàng Dũng - thợ khai thác đá thâm niên gần 20 năm ở thôn Phủ Đê, xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng nói. Một năm, người dân Tân Sơn chỉ đi “phu đá” vào cữ giáp hạt, họ tiến sâu vào trong núi, lật tung hết kiệt vùng hoang sơn để lấy đá làm xi măng hoặc vật liệu xây dựng.

Khoan đá, nổ mìn (Ảnh minh hoạ)

Núi đá tít tắp toạ lạc dọc triền sông Cầu và sông Đáy đều được các công ty tư nhân đấu thầu, bà con sở tại trở thành công nhân thuê mướn theo thời vụ những công nhân thiếu chuyên môn mỹ thuật nhưng thừa lòng nhiệt huyết. Họ nghèo, thậm chí rất nghèo.

Gần tới đỉnh núi Bèo, ngoác ra ngơm ngam hang hốc, chênh vênh. Anh Dũng và hai thợ đá khác dò dẫm gạt mạng nhện, cành cây, buộc dây bảo hiểm, năm đầu ngón chân bám vào sườn núi lách qua thạch tầng xiên xẹo rồi treo mình bùng bêu bên miệng vực.

Cứ ba ngày nổ mìn một lần vào buổi chiều, mỗi lần phải tìm các vùng đá có trữ lượng lớn, anh Dũng cho hay. "Ở thôn có nhiều đội nổ mìn không?” tôi hỏi. “Gần 20 đội, mỗi đội từ 3 đến 5 người. Sau khi nổ mìn, mỗi đội lại thuê nhân công để bốc vác lên các xe vận chuyển”.

… Tiếng nổ trên các triền núi chon von, xa gần dậy lên. Trời như long ra, xé toạc thành muôn mảnh không gian đỏ quạch, đen đặc, trắng loá, mịt mù. Hơn giờ đồng hồ nặng nề trôi qua, tấm voan hoang khi đá vãn, chờn vờn bãi đá phủ lớp lớp, gương mặt thần Tản hốc hác, chỉ còn sót lại vài chỏm nhũ sơn leo lắt.

Ông Nguyễn Hồng Tạp - Trưởng thôn Phù Đê cho biết: “Hàng nghìn khối đá xây dựng được dân khai thác mỗi tháng nhưng tiền công rất rẻ mạt, không theo một khung giá nào. Thường mỗi ngày một người dân chỉ kiếm được 40.000 – 50.000 đồng, trong đó họ phải tự đầu tư bảo hộ lao động".

Tôi ngỏ ý về các tai nạn trong khai thác đá, ông Tạp chỉ lắc đầu ngao ngán, ngày nào chả có, chuyện thường. Rồi vị trưởng thôn kể về đời mình, cũng là cuộc đời của phu đá. Ông đã từng hơn 20 năm rong ruổi khắp các dãy núi Đồng Quang, hết đá ở Đồng Quang lại chuyển sang núi Bèo. Đến nay, mốc nhân sinh cập kề thất thập, ông ngẫm mãi thấy đời mình và đời con cháu tựa đời… treo, năm này năm khác, không kể nắng mưa cứ treo mình lên đá, lúc đá rơi cũng là lúc đời trôi.

Chấp chới bóng thạch phu

Hôm sau, những chiếc xe ben, công nông lầm lũi trong voan sương vương nhoà đậm nhạt tậm tịt lê vào bãi đá, hàng trăm nông phu đã xếp hàng luỹ bề bề kéo theo. Họ đi để xí phần những mỏm núi đá được mìn đánh tan từ chiều qua.

“Hai vợ chồng và đứa con gái đều đến từ tinh mơ. Không đi sớm xí phần coi như cả ngày không thu nhập, không có gì ăn”, chị Vũ Thị Diệp, ở xã Tân Sơn tâm sự. 13 tuổi, thân gái mưa sa, chị Diệp đã theo ông chú ruột lang thang lên núi mưu sinh, nay ngót 40 năm, con gái chị lại nối nghiệp.

Trong khoảng không bình minh lấp loá, núi nghìn trùng chấp chới bóng thạch phu, họ vác trên vai từng khối đá to bằng mấy đầu người, ậm ạch đẩy lên thùng ben và công nông. Đa phần phụ nữ, những vuông mặt khẩu trang kín mít thò ra hai hốc mắt tối om, thâm quầng giống cảnh chạy tị nạn ở khu tự trị hồi giáo.

Tôi đến bên Lê Thị Hoà, 17 tuổi (con chị Diệp), mới vào nghề được 2 năm. Giờ, nhìn bàn tay Hoà người ta đoán già đoán non cũng phải cữ đầu “băm”, những đường chỉ sâu thành rãnh vằn vện, móng tay vàng khè tựa gã đàn ông chuyên rê thuốc lào.

“Em không đi học à?”, tôi bắt chuyện. Hoà bộc bạch: “Ở làng này có mấy ai học hết phổ thông đâu, sinh ra đã có nghề hẳn hoi rồi. Nhìn mấy đứa bạn cùng lứa đi học, cũng thấy tủi, nhưng một ngày không đi làm, thiệt công đến bảy, tám khối đá”.

Đúng ngọ. Khai trường kéo dài hàng trăm mét vẫn ồn ào tiếng động cơ. Dưới chân núi Bèo, nhìn dốc ngược lên, giữa vô vàn hầm ếch hơn chục thợ đá vẫn cầm rìu, thuổng gạy nốt vài mỏm đá. Những động tác thủ công, những cánh tay trần nhầy nhụa mồ hôi, những khuôn mặt bạnh quai hàm trô ra thách thức với tạo hoá. Đây là điều vẫn diễn ra hàng ngày ở xứ sở này , nhưng tôi lại lờ mờ cảm nhận có sự không bình thường đang hiện hữu.

Những sinh mạng ngoài vòng pháp luật

Hầu hết các khu núi đá ở Tân Sơn đều được các công ty bỏ tiền đấu thầu. Hiện đã có 6 chủ đầu tư mở xưởng sản xuất, chế biến đá thô tại chỗ. Việc thăm dò khai thác nguồn tài nguyên, tạo việc làm cho hàng nghìn hộ dân ở một miền quê nghèo là đáng quý. Nhưng, cách mà các công ty này tạo sinh kế cho người dân lại gián tiếp đẩy họ vào cảnh phải lao động ngoài vòng pháp luật.

Đa số công ty không trực tiếp tuyển người mà giao cho một cá nhân ở địa phương đảm bảo từ khâu thuê nhân công đến khi đá thô được chuyển về kho bãi của doanh nghiệp. Điều đó đồng nghĩa, tai nạn xảy ra sẽ không có bảo hiểm bởi người đại diện công ty không ký hợp đồng với các lao động.

Đầu năm nay, 3 công nhân làm thuê cho anh Tạ Văn Cường (người nhận giao khoán của Công ty TNHH Thống Nhất) đang khoan mồi, đặt mìn phá đá quá cỡ dưới chân núi Đồng Quang, thì bất ngờ cả vỉa đá chừng 3.000m3 đổ sập xuống. Họ ra đi bỏ lại 3 người vợ trẻ và 6 đứa con thơ, nỗi đau khôn xiết.

Nhưng, tiếp xúc với chúng tôi, Công ty TNHH Thống Nhất Trần Thị Chuyển khẳng định: Công ty đã ký hợp đồng với anh Cường ngày 15.11.2007, nêu rõ khoán gọn việc khai thác đá sản phẩm xuống chân núi nghiệm thu.

Đáng lưu ý: “Đơn giá khoán cộng đầy đủ các khoản bảo hiểm theo quy định của pháp luật”. Thực tế, tai nạn xảy ra anh Cường cũng chưa trình ra được hợp đồng lao động với các công nhân xấu số trên. Ai sẽ thanh toán bảo hiểm cho các công nhân này?

Chiều nhuộm tím sông Đáy, từng nhóm bèo tây lô xô ôm lấy những bóng thuyền nghiêng ngả giữa dòng. Đâu đó, tiếng ru con lạc lõng của chị Hương đều đều, toả ra mênh mang sông nước. Đời chị, liệu có hoá vọng phu khi người chồng lên núi biền biệt không về.

Theo Hoài Quảng
doisongvaphapluat