Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (CPH DNNN) là một chủ trương lớn của Ðảng và Nhà nước ta, là một trong những giải pháp quan trọng nhằm sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN. Thực tiễn sau 13 năm thực hiện CPH DNNN, nhất là từ khi có các Nghị quyết T.Ư 3 và T.Ư 9 (khóa IX) tới nay, chủ trương đó ngày càng đi vào cuộc sống, đạt kết quả khả quan. Tuy vậy, trên lộ trình CPH DNNN và sau CPH, đang tồn tại những khó khăn, vướng mắc, đòi hỏi Ðảng, Nhà nước và người lao động phải nỗ lực, quyết tâm giải quyết.
Mở đầu cuộc hội thảo, GS.TS Lê Hữu Nghĩa, Ủy viên T.Ư Ðảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng lý luận T.Ư, có bài phát biểu đề dẫn khá đầy đủ, phong phú. Ðồng chí nêu những vấn đề tồn tại từ thực tiễn quá trình CPH DNNN và sau CPH. Ba loại nguyên nhân bước đầu của tình hình trên là: vị trí, vai trò của tổ chức đảng các cấp; công tác quản lý nhà nước và hệ thống chính sách bảo đảm; cơ chế vận hành và kiểm tra, giám sát dân chủ còn những hạn chế, bất cập. Ðồng chí đề nghị các đại biểu tập trung thảo luận bốn nội dung chính:
Một là, phải làm gì và làm như thế nào để tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chính trị, tạo ra sự thống nhất về nhận thức, trước hết trong các cấp ủy, đội ngũ cán bộ, đảng viên và người lao động về chủ trương CPH DNNN; về vị trí, vai trò của tổ chức đảng trong các công ty cổ phần đang giữ vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế nước nhà; về quyền, trách nhiệm và lợi ích của người lao động mà các tổ chức, đoàn thể là người đại diện chân chính cho họ trong các công ty CPH?
Hai là, trên cơ sở phân định mô hình tổ chức, tiếp tục đổi mới chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của tổ chức đảng, trước hết và tập trung là cấp ủy với hội đồng quản trị, giám đốc (tổng giám đốc)... trong các công ty cổ phần ở các loại hình (DNNN giữ cổ phần chi phối hoặc không chi phối, công ty mẹ - công ty con...) sẽ ra sao?
Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của tổ chức đảng, vai trò của các đoàn thể trong DN CPH bao gồm những vấn đề gì? Mối quan hệ của nó với cấp ủy cấp trên trực tiếp ra sao? Những điều kiện cần và đủ bảo đảm thực hiện những điều đó?
Bốn là, cơ chế phối hợp thống nhất, chặt chẽ và hiệu quả giữa sự lãnh đạo của Ðảng ở các cấp với tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước, của chính quyền các cấp bằng sức mạnh tổng hợp đối với các DN CPH trên tầm vĩ mô như thế nào?
Thực hiện Quyết định số 230/2005/QÐ-TTg ngày 21-9-2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc thí điểm CPH VCB, TS Vũ Viết Ngoạn, Bí thư Ðảng ủy, Tổng Giám đốc VCB thay mặt hơn 6.000 cán bộ, đảng viên, nhân viên ngân hàng, đọc lời chào mừng. Ðồng thời nêu rõ những công việc mà VCB đã và đang làm để sớm thực hiện CPH ngân hàng. Ðồng chí cũng trao đổi một số suy nghĩ của mình trong việc triển khai thực hiện CPH ở đơn vị. Ðó là: tiến trình đổi mới các DNNN nói chung và CPH nói riêng diễn ra trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều thách thức mới trước sự tác động trên cả hai chiều thuận và nghịch. Từ trước đến nay, vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong DNNN đã được khẳng định qua thực tế phát triển, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, việc CPH sẽ tất yếu dẫn tới những thay đổi mang tính căn bản trong nội bộ DN, từ cơ cấu sở hữu đến phương thức quản trị, điều hành; đồng thời cũng đòi hỏi phải có sự đổi mới tương ứng trong cơ chế, chính sách quản lý cũng như hoạt động của tổ chức đảng. Trong tiến trình CPH DNNN và sau khi CPH, việc đổi mới hoạt động công tác đảng nhằm nâng cao vị trí và vai trò của tổ chức đảng trong DN để vừa phát huy được vai trò lãnh đạo, vừa dung hòa các mối quan hệ nội tại cùng vì một mục tiêu phát triển chung đang là một vấn đề cấp bách, vừa mang tính khoa học, vừa có ý nghĩa thực tiễn, đòi hỏi phải được nghiên cứu một cách nghiêm túc và toàn diện.
Ông Trần Văn Tuấn, Phó Bí thư Ðảng ủy Khối cơ quan Kinh tế T.Ư, nêu rõ sự cần thiết phát huy vai trò lãnh đạo của Ðảng trong quá trình CPH DNNN. Ðồng chí khái quát có tính hệ thống quá trình hình thành đường lối, chủ trương, chính sách CPH DNNN, trong đó nêu lên những điểm mới về nội dung và phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng trong công ty cổ phần có vốn Nhà nước. Ðánh giá những mặt tích cực và hạn chế của tổ chức đảng trong công ty cổ phần có vốn Nhà nước thuộc Ðảng bộ Khối cơ quan Kinh tế T.Ư, đồng chí cho biết: Hiện nay, Ðảng bộ Khối cơ quan Kinh tế T.Ư có 36 đảng bộ và 32 chi bộ trong các công ty cổ phần có vốn Nhà nước. Các đảng bộ, chi bộ được đánh giá hoàn thành nhiệm vụ hoặc trong sạch, vững mạnh, không có tổ chức đảng yếu kém. Có 18 chủ tịch HÐQT, 45 ủy viên HÐQT, tổng giám đốc (giám đốc), phó giám đốc công ty là Bí thư Ðảng ủy hoặc Bí thư Chi bộ. Như vậy, cơ bản lãnh đạo chủ chốt công ty là chủ chốt cấp ủy. Mô hình tổ chức đảng của công ty cổ phần có vốn Nhà nước trực thuộc đảng bộ cơ quan đại diện vốn Nhà nước có trách nhiệm quyết định về cán bộ chủ chốt của HÐQT, ban điều hành công ty. Do đó, thuận lợi về lãnh đạo đầu tư, sản xuất, kinh doanh, giữ được nền nếp công tác đảng, công tác phát triển đảng viên, lãnh đạo các tổ chức quần chúng, xử lý đảng viên có sai phạm... Tuy nhiên, một số vấn đề cần khắc phục, đổi mới. Ðó là, chuyển đổi sang công ty cổ phần có vốn Nhà nước, trong cấp ủy vẫn còn tư duy, kinh nghiệm, nội dung và phương thức lãnh đạo như trước đây là DNNN. Các cơ quan quản lý nhà nước chưa pháp quy hóa thành văn bản pháp luật những quy chế, quy trình và nội dung cụ thể về vai trò lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ trong công ty cổ phần có vốn Nhà nước; nhất là phương thức tham gia, trao đổi ý kiến, kiểm tra. Cấp trên có thẩm quyền xem xét về chuyên môn, công tác cán bộ khi không còn chế độ bộ chủ quản. Nhận thức có điểm còn khác nhau, cho nên tính hiệu lực thực thi chưa cao. Ðồng thời, việc thực hiện các quy định này phụ thuộc rất lớn vào ý thức tổ chức và trách nhiệm của đảng viên là thành viên HÐQT, ban điều hành tổng công ty (công ty), nhận thức của đảng viên và các thành viên tham gia vốn, nhất là thành viên tham gia vốn là người nước ngoài. Ðồng chí kiến nghị một số vấn đề cần nghiên cứu, xử lý: Tổ chức học tập, quán triệt các quan điểm, nội dung, phương thức lãnh đạo của Ðảng trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Quy định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ trong công ty cổ phần có vốn Nhà nước cần được nhận thức thống nhất và đúng đắn. Các cơ quan quản lý nhà nước phải thể chế hóa thành văn bản pháp quy về nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm và mối quan hệ giữa cấp ủy với HÐQT, ban điều hành về chủ trương sản xuất, kinh doanh, công tác tổ chức và cán bộ, công tác kiểm tra. Từ đó, yêu cầu các công ty xây dựng quy chế, quy định, quy trình thực hiện cụ thể. Xác định rõ cấp trên có thẩm quyền để khi cấp ủy có ý kiến khác với HÐQT cần thiết để báo cáo. Chọn cán bộ đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước đủ tiêu chuẩn, tín nhiệm và năng lực tham gia chủ chốt cấp ủy, có năng lực thuyết phục đội ngũ lãnh đạo công ty, người lao động, kể cả các thành viên khác, chấp hành tốt các quy định pháp luật. Trung ương có chương trình bồi dưỡng, đào tạo cấp ủy hoạt động trong các công ty ngoài Nhà nước, hướng dẫn trách nhiệm, quyền hạn lãnh đạo của tổ chức đảng đối với công ty cổ phần có vốn Nhà nước chi phối và không chi phối.
Tham luận tại hội thảo, ông Hồ Xuân Hùng, Phó Trưởng ban chỉ đạo Ðổi mới và phát triển DNNN T.Ư phân tích, nhận định những thành tựu của quá trình CPH DNNN từ thời điểm bắt đầu cho đến nay, đồng thời nêu những dự báo và hướng phát triển của DN cổ phần ở nước ta. Ðồng chí nêu rõ, chủ trương CPH DNNN ở Việt Nam được đặt ra khá sớm. Quá trình CPH được tiến hành chủ động, từng bước vững chắc, thể hiện sự chuyển đổi tư duy từ kinh tế quốc doanh, tập thể là chính sang kinh tế nhiều thành phần đan xen phát triển, kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. CPH đi từ một số ít DN nhỏ, thua lỗ trong một số lĩnh vực, sang các DN lớn, hiệu quả, kể cả một số tổng công ty và ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chú trọng công tác tổng kết thực tiễn trong chỉ đạo, tổ chức. CPH từ "khép kín" sang thực hiện đấu giá công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội, không gây xáo trộn, không biến thành tư nhân hóa, giữ ổn định chính trị, gắn chặt và là bộ phận của công cuộc đổi mới, sắp xếp, phát triển, nâng cao hiệu quả DNNN. Sau khi nêu những tồn tại, yếu kém, hạn chế của CPH, đồng chí Hồ Xuân Hùng nêu rõ những nội dung chính của CPH DNNN trong thời gian tới như: Tập trung kiện toàn các tổng công ty nhà nước, chuyển phần vốn Nhà nước trong công ty cổ phần về Tổng công ty đầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước quản lý, xử lý các DNNN là nông trường, lâm trường, công ty thủy nông...
Từ thực tiễn và kinh nghiệm về sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối với các DN CPH trong Tập đoàn công nghiệp Than và Khoáng sản Việt Nam, đồng chí Nguyễn Văn Long, Bí thư Ban cán sự đảng, Chủ tịch HÐQT Tập đoàn, nêu ra việc làm cụ thể hiệu quả của cấp ủy. Ban cán sự đảng cùng HÐQT, tổng giám đốc tập đoàn bàn bạc, nghiên cứu vận dụng các quy định của T.Ư, kết hợp thực tiễn hoạt động của công ty cổ phần trong ngành, ban hành Hướng dẫn số 01-HD/BCS ngày 5-7-2005, cụ thể hóa vai trò lãnh đạo của các tổ chức đảng trong công ty cổ phần thông qua "trách nhiệm của người đại diện phần vốn Nhà nước đối với tổ chức cơ sở đảng".
Sau khi có hướng dẫn của Ban cán sự đảng tập đoàn về trách nhiệm của người đại diện phần vốn Nhà nước đối với các tổ chức cơ sở đảng, các cấp ủy đảng trong công ty cổ phần đã khẳng định được vị trí, vai trò lãnh đạo của mình đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty. Ðợt kiểm tra cuối năm 2005 cho thấy, hầu hết các công ty cổ phần đã xây dựng được quy chế phối hợp hoạt động giữa HÐQT và giám đốc với đảng ủy công ty, hoạt động của cấp ủy được đổi mới so với khi còn là DNNN; kết quả sản xuất, kinh doanh của các công ty cổ phần đều có sự tăng trưởng, bảo toàn và phát triển vốn, bảo đảm việc làm và thu nhập cho người lao động; cổ tức năm 2005 đạt từ 12% đến 25%, chỉ có hai công ty cổ tức đạt 11% và 9%.
Tham luận tại hội thảo, bà Nguyễn Thị Hằng, Ủy viên T.Ư Ðảng, Bộ trưởng Lao động - Thương binh và Xã hội, nêu hai vấn đề được quan tâm nhiều nhất trong quá trình CPH là chính sách đối với người lao động và định giá DN. Trong đó, chính sách đối với người lao động là rất quan trọng, là vấn đề nhạy cảm, ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình CPH DNNN. Ðể chính sách này đạt hiệu quả thì lợi ích chính đáng của người lao động trong các DNNN CPH phải được giải quyết thỏa đáng cả việc làm, ổn định đời sống. Hay nói một cách khác, quyền làm chủ của người lao động tại DN thực hiện CPH được bảo đảm, quá trình CPH DNNN, Ðảng, Nhà nước đã quan tâm, có những chính sách, chế độ phù hợp giải quyết lao động dôi dư, sắp xếp lại lao động. Tuy nhiên, Ðảng cần tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động, phương thức lãnh đạo.
Từ thực tiễn hoạt động của Tổng công ty Ðiện lực Việt Nam (EVN), ông Nguyễn Bỉnh Niệm, Bí thư Ðảng ủy cơ quan EVN, cho biết: Hiện nay, EVN có gần 12 nghìn đảng viên với hơn 100 đảng bộ, chi bộ cơ sở. Tổ chức đảng trong EVN đa dạng và phân tán. Tại cơ quan tổng công ty, có Ðảng bộ cơ quan tổng công ty trực thuộc Ðảng bộ Khối cơ quan Kinh tế T.Ư. Tại TP Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, có nhiều tổ chức đảng trực thuộc Ðảng bộ khối Công nghiệp Hà Nội, Ðảng bộ khối Công nghiệp TP Hồ Chí Minh. Tại các địa phương khác, đảng bộ các công ty, xí nghiệp của EVN trực thuộc đảng bộ địa phương.
EVN không có tổ chức đảng theo ngành dọc, phạm vi hoạt động của đảng bộ cơ quan tổng công ty chỉ giới hạn trong cơ quan tổng công ty, cho nên vai trò lãnh đạo của Ðảng bộ cơ quan còn nhiều hạn chế trong việc hoạch định và thực hiện nhiệm vụ chính trị chung của toàn tổng công ty. Từ tháng 12-2003, Ban Bí thư T.Ư Ðảng mới có quyết định thành lập Ban cán sự đảng tổng công ty.
Tuy đã có sự thống nhất, phối hợp chặt chẽ giữa Ban cán sự đảng tổng công ty, Ðảng ủy cơ quan tổng công ty với lãnh đạo tổng công ty trong cơ cấu tổ chức bộ máy Ban Ðổi mới quản lý DN của tổng công ty, song mô hình tổ chức đảng trong EVN chưa phát huy hết vai trò trong việc sắp xếp, đổi mới DN chung trong toàn tổng công ty. Ðây là một mặt yếu của mô hình tổ chức đảng không xuyên suốt tới các đơn vị thành viên của EVN. Việc quản lý công ty cổ phần cũng như vai trò của các tổ chức đảng, đoàn thể trong các công ty cổ phần còn nhiều bất cập, thiếu các quy chế, quy định đồng bộ, cụ thể. Cần có những chuyên đề, đề tài nghiên cứu về mô hình tổ chức đảng trong các DNNN CPH, các DN và bộ phận DN trực thuộc, đồng thời đang có hướng hình thành tập đoàn.
Ðánh giá về thực trạng đội ngũ cán bộ trong công ty CPH, ông Thang Văn Phúc, Thứ trưởng Nội vụ, cho rằng, DNNN hoạt động theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung hơn 30 năm, phong cách và kinh nghiệm ăn sâu vào tiềm thức của đội ngũ cán bộ quản lý DNNN, việc thay đổi nếp suy nghĩ, tư duy hành động có những khó khăn, phức tạp. Chúng ta chưa có trung tâm, trường chính quy nào đào tạo chuyên ngành cho đội ngũ cán bộ này. Những người này phải tự học tập, tìm hiểu tài liệu cũng như kinh nghiệm để áp dụng trong điều hành sản xuất, kinh doanh. Công tác nhân sự hiện nay chưa đáp ứng được việc tìm ra những người quản lý DN thật sự có năng lực trong nền kinh tế thị trường, vẫn đánh giá theo những tiêu chí cũ, không phù hợp kinh tế thị trường, do chúng ta chưa có cơ chế thi tuyển để tuyển chọn những người vào những vị trí thể hiện qua những phương án, đề án sản xuất và kinh doanh cụ thể. Trong quá trình thực hiện CPH, Nhà nước cũng chưa có cơ chế, biện pháp xử lý rõ ràng đối với trường hợp tập thể, cá nhân trong đội ngũ cán bộ quản lý DNNN không muốn CPH với nhiều lý do, nhằm làm cản trở tiến độ CPH tại DN. Mặc dù tại khoản 8 Ðiều 27 Luật DNNN năm 2003 quy định giám đốc mà không tiến hành các thủ tục tổ chức sắp xếp lại, giải thể hoặc chuyển đổi sở hữu thì giám đốc bị miễn nhiệm, chấm dứt hợp đồng trước thời hạn... Song, trên thực tế, chưa một ai bị xử lý về hành vi vi phạm này, đã làm cho tiến trình CPH của các DNNN giảm một cách đáng kể.
Cán bộ quản lý DNNN sau khi chuyển sang DN CPH như tổng giám đốc, HÐQT và kế toán trưởng chưa có quy định rõ ràng về trách nhiệm, nhiệm vụ, quyền lợi. Việc chưa có quy định rõ ràng về chế độ, chính sách cho người quản lý phần vốn của Nhà nước tại DN CPH cũng tạo nên sự thiếu quyết tâm CPH của DN ở đội ngũ cán bộ này.
Với chủ đề xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, nhân tố bảo đảm cho các DN CPH hoạt động đúng định hướng, có hiệu quả, đồng chí Nguyễn Ðức Hà, Vụ trưởng Vụ Cơ sở đảng, Ban Tổ chức T.Ư, nêu rõ: Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định sự tồn tại, phát triển, vững mạnh của toàn Ðảng. Trong những năm qua, nhất là sau khi thực hiện các Nghị quyết T.Ư 3 và 9 (khóa IX), chủ trương CPH DNNN được đẩy mạnh. Nhiều DNNN trước đây làm ăn thua lỗ, nhưng sau khi được CPH, sản xuất, kinh doanh từng bước ổn định và phát triển, đời sống của người lao động được cải thiện. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình tiến hành CPH DNNN, cũng xuất hiện nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó có nhiều vấn đề bắt nguồn từ việc xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng ở các DN sau khi tiến hành CPH. Ðây cũng là một trong các nguyên nhân làm cho DN CPH chưa phát huy được thế mạnh của mình, làm cho chủ trương CPH của
Ðảng và Nhà nước ta tiến triển chậm, chưa đáp ứng yêu cầu, kế hoạch đề ra. Vì vậy, khi các DNNN được CPH càng nhiều thì việc xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong DN là vấn đề hết sức quan trọng, nhân tố bảo đảm cho DN hoạt động đúng định hướng, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong công ty cổ phần có vốn Nhà nước là vấn đề có ý nghĩa quan trọng, quyết định để các công ty này hoạt động đúng định hướng, sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, góp phần giữ vững vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước. Ðây là nhiệm vụ chung của Ðảng và Nhà nước ta, là trách nhiệm của các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương, cơ sở, trước hết là các cấp ủy đảng cấp trên của cơ sở và cấp ủy, đảng bộ, chi bộ cơ sở trong từng công ty.
Phát biểu ý kiến kết thúc hội thảo, thay mặt các đồng chí chủ trì, ông Ðinh Thế Huynh, Ủy viên T.Ư Ðảng, Tổng Biên tập báo Nhân Dân, khẳng định: Cuộc hội thảo này là một trong những hoạt động thiết thực đang diễn ra trên đất nước ta hướng tới Ðại hội lần thứ X của Ðảng. Hội thảo tập trung phân tích, góp phần làm rõ thực trạng của quá trình CPH DNNN, những kết quả to lớn đã đạt được cũng như những khó khăn, lúng túng đang vấp phải trong quá trình này.
Ðể thúc đẩy việc thực hiện chủ trương CPH DNNN đúng hướng, khâu quyết định là vai trò lãnh đạo của Ðảng và của các tổ chức đảng trong các công ty cổ phần. Các ý kiến phát biểu tại cuộc Hội thảo đều khẳng định chủ trương đổi mới, sắp xếp, nâng cao hiệu quả DNNN của Ðảng ta, nhất là việc CPH DNNN theo tinh thần các Hội nghị T.Ư 3 và T.Ư 9 (khóa IX), là đúng đắn. CPH DNNN là nhằm tăng vốn của DN, bảo toàn và phát triển phần vốn của Nhà nước, nâng cao trình độ quản lý trong DN. Ðó cũng là một trong những giải pháp hàng đầu để chống tệ tham nhũng trong các DNNN. CPH DNNN tạo ra nguồn lực mới để đổi mới công nghệ, do vậy tăng sức cạnh tranh của DN, tăng doanh thu, tăng lợi nhuận, bảo đảm tốt hơn quyền lợi người lao động.
Tuy nhiên, đi sâu vào thực trạng CPH, vẫn còn nhiều lúng túng, băn khoăn. Có những DN trong quá trình CPH, việc định giá không chính xác dẫn đến tình trạng khối tài sản lớn của Nhà nước bị đánh giá thấp. Thêm vào đó các cổ đông là người lao động, do cảnh ngộ gia đình, đã phải bán lại cổ phiếu, do đó, phần lớn cổ phiếu rơi vào tay một số người. Phải chăng, trong trường hợp đó, CPH đã bị biến tướng thành tư nhân hóa?
Hiện nay, chúng ta mới chỉ CPH những DN nhỏ hoặc làm ăn chưa tốt, thậm chí có DN đứng trước nguy cơ phá sản. Cho nên, sức lôi cuốn các nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư chiến lược chưa cao. Do vậy, việc thu hút vốn chưa thật nhiều, sức cạnh tranh các DN sau CPH chưa được cải thiện.
Các đại biểu cũng đã tập trung thảo luận về nội dung, phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với toàn bộ quá trình CPH DNNN cũng như đối với DN đã CPH. Các đại biểu dẫn ra những vấn đề cụ thể, nhất là Quy định 140 của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong các DN CPH có vốn Nhà nước. Các quy định này chỉ ra một số nội dung, phương thức lãnh đạo. Nhưng trên thực tế, cả nội dung và phương thức lãnh đạo, mới chỉ là những nét chung nhất, chưa thể áp dụng một cách đầy đủ, thông suốt trong tất cả loại hình các DN được CPH. Quá trình CPH DNNN là một cuộc chuyển đổi lớn, sâu sắc về nội dung, phương thức lãnh đạo của Ðảng, đặc biệt đối với các DN sau CPH. Trong đó, vấn đề đào tạo, quản lý cán bộ là khâu rất quan trọng. Ðặc biệt là việc bồi dưỡng, nâng cao, trình độ, năng lực, phẩm chất và tính đảng của đảng viên tham gia HÐQT, đại diện chủ sở hữu Nhà nước, góp phần nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong DN CPH. Cần có quy định cụ thể để bảo đảm điều kiện hoạt động của các tổ chức đảng trong các DN CPH. Qua các ý kiến tham luận, cần tiếp tục nghiên cứu để xây dựng các mô hình tổ chức đảng phù hợp từng loại hình DN.
|