Báo động đỏ - mỗi năm có 20% trẻ sinh ra từ những bà mẹ dưới 19 tuổi
Các Website khác - 30/11/2004

Ở nước ta hiện có khoảng 23 triệu vị thành niên, thanh niên và dự báo trong 15 năm tới số vị thành niên và thanh niên chiếm khoảng 1/3 tổng dân số, nhưng công tác chăm sóc sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình cho nhóm này chưa được quan tâm đúng mức.

Đời sống kinh tế xã hội phát triển nhanh chóng khiến vị thành niên và thanh niên đối mặt với hàng loạt thách thức mới, đặc biệt là quan hệ tình dục trước hôn nhân và tình dục không an toàn đang gia tăng. Một nghiên cứu mới đây của các cơ quan chức năng ở 1100 vị thành niên (từ 15-19 tuổi) tại 20 xã của thành phố Hải Phòng cho thấy, có tới 16,5% số vị thành niên và thanh niên từng có quan hệ tình dục, gần 34% trong số đó không dùng bất cứ biện pháp tránh thai nào.

Điều đáng báo động, tỷ lệ vị thành niên có quan hệ tình dục trước hôn nhân ở nông thôn cao hơn thành phố tới 2,2%. Số phụ nữ và trẻ em vị thành niên gái có thai sớm và đến với dịch vụ phá thai tương đối cao. Hàng năm có khoảng 300.000 phụ nữ có thai, trước tuổi 20, trong đó 80% không biết vì sao mình có thai. Và theo kết quả nghiên cứu của Bộ Y tế, mỗi năm nước ta có khoảng 20% số trẻ được sinh ra từ những bà mẹ dưới 19 tuổi và 30% số ca nạo phá thai là phụ nữ trẻ chưa lập gia đình.

Vấn đề nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho nhóm đối tượng vị thành niên và thanh niên đang là thách thức của ngành dân số, gia đình và trẻ em. Nguyên nhân của tình trạng trên là phần lớn vị thành niên và thanh niên thiếu thông tin, kiến thức về sức khỏe tình dục, sức khỏe sinh sản kể cả HIV và các biện pháp tránh thai.

Bên cạnh đó, công tác tư vấn, tiếp cận của vị thành niên và thanh niên với các dịch vụ kể cả tư vấn phòng ngừa về sức khỏe sinh sản còn hết sức hạn chế. Một số người được hỏi cho rằng, sở dĩ hầu hết vị thành niên và thanh niên ít khi tìm đến các cơ sở y tế nhà nước để tư vấn hoặc khám chữa bệnh liên quan đến sức khỏe sinh sản, bởi họ chưa tìm thấy môi trường thân thiện, kín đáo, bí mật.

Thêm vào đó, các cơ sở y tế chưa thực sự chia sẻ, cảm thông với họ và thực tế hãy còn những khoảng cách giữa người cung cấp dịch vụ với vị thành niên và thanh niên. Ngoài ra, kỹ năng tư vấn, việc cung cấp thông tin với cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình đối với vị thành niên và thanh niên cũng còn chưa thật thuận tiện, an toàn và đầy đủ.