Nhiều thách thức về môi trường pháp lý
Nghiên cứu mới đây của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) được thực hiện từ tháng 5/2016 đến tháng 12/2016 với quá trình khảo sát thực địa tại 5 địa phương là Hà Nội, TP HCM, Sóc Trăng, Thừa Thiên-Huế và Điện Biên đã nghiên cứu những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến sự phát triển bền vững về nguồn lực tài chính của các tổ chức xã hội ở Việt Nam.
![]() |
Các tổ chức xã hội đang có những đóng góp rất tích cực cho công tác phòng, chống HIV/AIDS |
Nghiên cứu của VEPR chỉ ra thách thức về môi trường pháp lý, đó là các lần sửa đổi Hiến pháp đều bảo đảm quyền lập hội và tự do hội họp của người dân, tuy nhiên, chưa có một bộ luật hoàn chỉnh nào điều chỉnh hoạt động của các tổ chức xã hội.
Bên cạnh đó, hệ thống quy định hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp đi kèm cho các tổ chức xã hội cũng chưa đầy đủ hoặc chưa khuyến khích cho sự phát triển tổ chức xã hội.
Theo Luật Ngân sách Nhà nước (2015), ngân sách trung ương và địa phương có quyền cấp kinh phí cho một số hoạt động của các tổ chức xã hội. Nhưng, trên thực tế, việc tiếp cận nguồn ngân sách là rất khó khăn.
Theo một khảo sát được thực hiện năm 2013, chỉ có 9% các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu đã từng hợp tác với các tổ chức phi chính phủ Việt Nam (VNGO) trong các hoạt động nhân đạo, từ thiện của mình. Điều này xuất phát từ một thực tế rằng các doanh nghiệp không hiểu nhiều về tổ chức xã hội và hoạt động của tổ chức xã hội. Khi được hỏi về vai trò của NGO trong xã hội, doanh nghiệp có xu hướng nghiêng về các nhận định mang tính truyền thống và khá hạn hẹp. Có đến 78% doanh nghiệp được hỏi cho rằng vai trò của các NGO là ở trong lĩnh vực “giảm nghèo”. Điều này là đáng tiếc, bởi mục tiêu của tổ chức xã hội và doanh nghiệp có khá nhiều điểm tương đồng.
Việc thành lập quỹ tư nhân để thu hút nguồn lực cộng đồng, hay quản lý nguồn tiền tài trợ là hết sức khó khăn do rào cản từ pháp lý. Hiện tổ chức xã hội không được phép huy động vốn từ cộng đồng, như các quỹ từ thiện, nên nguồn lực cộng đồng hỗ trợ hết sức hạn chế.
Viện trợ nước ngoài đang đóng góp phần lớn cho ngân quỹ hoạt động của tổ chức xã hội Việt Nam. Tuy nhiên, sau khi Việt Nam vượt ngưỡng nước nghèo, các hỗ trợ quốc tế sẽ nguy cơ bị cắt giảm mạnh trong thời gian sắp tới, như Chương trình phòng chống HIV/AIDS của Quỹ Toàn cầu, hay các chương trình của Ngân hàng thế giới, ADB và nhiều quỹ viện trợ khác.
Ngoài các rào cản liên quan pháp lý và tài chính, các tổ chức xã hội hiện gặp phải những rào cản liên quan đến môi trường hoạt động, trong đó đáng kể nhất là thái độ của người dân về hoạt động của tổ chức xã hội. Theo một khảo sát của Asia Foundation về mức độ tiếp nhận của người dân với tổ chức xã hội, chỉ có 25% số người được hỏi là biết đến NGOs, trong số đó chỉ 1/3 là tin tưởng vào hoạt động của khối. Người dân từ các cấp, địa phương khác nhau lo ngại tổ chức xã hội là tổ chức chống phá, gây tác động tiêu cự đến xã hội. Khảo sát cũng cho thấy, ở nông thôn thì mức độ kỳ thị với tổ chức xã hội lớn hơn ở thành phố. Điều này có thể bắt nguồn từ việc tổ chức xã hội chỉ tập trung vào các thành phố.
“Cởi trói” để đóng góp nhiều hơn cho xã hội
Để tháo gỡ những rào cản về tài chính, ông Đặng Thuần Phong, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Về các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng, phương án chính để vượt qua thách thức về tài chính của các tổ chức xã hội là chuyển hướng nội địa, tức là hướng tới doanh nghiệp trong nước và triển khai cung ứng dịch vụ công cho Nhà nước. Xu hướng sẽ là các tổ chức xã hội phải tự trang trải, tự chủ và tự chịu trách nhiệm, Nhà nước chỉ quản lý sản phẩm đầu ra, đánh giá sản phẩm đầu ra mới giao tiền. Điều này là thách thức nhưng cũng là cơ hội của các tổ chức xã hội.
Tuy nhiên, Phó Chủ nhiệm Đặng Thuần Phong cũng cho biết, hiện chưa có quy định rõ ràng về việc dịch vụ nào Nhà nước cung ứng, dịch vụ nào phải giao cho các tổ chức xã hội. Ông Phong cho rằng điều này cần quy định cụ thể bằng luật pháp. Có như vậy, các tổ chức xã hội mới dựa theo nghiên cứu năng lực của mình để đăng ký thực thi những dịch vụ công của Nhà nước.
Hơn nữa, theo ông Đặng Thuần Phong, hiện chưa có những chính sách cụ thể để phát huy tính tự chủ, tự trang trải của các tổ chức hội. “Mặc dù Nhà nước khuyến khích nhưng tôi gần như không nhận thấy trong các văn bản pháp luật những chính sách giúp các tổ chức xã hội tự trang trải, tự chủ động. Đây là khiếm khuyết lớn mà vai trò quản lý nhà nước tới đây phải làm rõ”, ông Phong nói.
Ông Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR - trưởng nhóm nghiên cứu khuyến nghị: Cần đơn giản hoá các thủ tục thành lập và quản lý tổ chức xã hội, đặc biệt ở những lĩnh vực phúc lợi xã hội, phục vụ nhóm yếu thế… để tạo điều kiện cho tổ chức xã hội tự huy động nguồn lực được dễ dàng hơn, đặc biệt trong bối cảnh xu hướng tài trợ thiện nguyện không qua các tổ chức nhà nước, hoặc thiện nguyện tự phát đang phát triển mạnh. Thực tế cho thấy, mặc dù thủ tục đăng ký thành lập hội và tổ chức xã hội còn phức tạp khó khăn, nhiều tổ chức xã hội vẫn hoạt động được bằng nhiều cách khác nhau, như đăng ký lập doanh nghiệp thay vì thành lập hội. Vì thế, nếu không đơn giản hoá các thủ tục thành lập tổ chức xã hội thì sẽ gây khó cho chính các cơ quan chức năng trong việc quản lý hiệu quả các tổ chức xã hội.
Nghiên cứu định lượng của VEPR cũng cho thấy khả năng sử dụng vốn ngoài ngoài Nhà nước của các tổ chức phi chính phủ (NGO) và tổ chức cộng động (CBO) là hiệu quả. Do đó một chính sách thông thoáng hơn sẽ giúp các tổ chức này “cởi trói” và đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Thứ hai, dựa trên khuôn khổ pháp luật mới về tổ chức xã hội cần tái phân loại các tổ chức xã hội thành các tổ chức tương hỗ và các tổ chức công ích. Theo đó, chỉ có các tổ chức công ích, tham gia vào các hoạt động phục vụ cộng đồng sẽ có điều kiện để được hưởng hỗ trợ từ Nhà nước.
Theo nhóm nghiên cứu, các địa phương cũng cần xây dựng cơ chế phân bổ ngân sách rõ ràng cho các tổ chức xã hội, dựa trên nhu cầu phúc lợi địa phương và qua hình thứ đấu thầu quỹ hoạt động theo đúng tinh thần của Luật Ngân sách Nhà nước sửa đổi 2015. Cần xây dựng cơ chế phân bổ ngân sách theo cơ chế cạnh tranh để bảo đảm tổ chức xã hội có năng lực nhất có thể tham gia đấu thầu thực hiện.
Ngoài ra, cần rà soát lại việc phân bổ nguồn lực ngân sách Nhà nước cho các hiệp hội, kể cả những hội không phải đặc thù; sử dụng khoản tiết kiệm được xây dựng quỹ hỗ trợ cộng đồng cạnh tranh ở các địa phương. Mặt khác, cần yêu cầu các tổ chức xã hội, kể cả các tổ chức quần chúng công, minh bạch các nguồn ngân quỹ sử dụng từ việc huy động vốn cho công tác thiện nguyện, như đăng tải báo cáo tài chính cho các hoạt động của mình.
Cần xây dựng chính sách ưu đãi cụ thể rõ ràng hơn cho những đóng góp thiện nguyện của doanh nghiệp cho các tổ chức xã hội không thuộc Nhà nước, đặc biệt là chính sách về thuế. Đồng thời, cần đơn giản hoá thủ tục nhận hỗ trợ, đặc biệt ở những lĩnh vực không nhạy cảm như xoá đói nghèo, phòng ngừa dịch bệnh truyền nhiễm…đúng như chính sách quán triệt của Đảng và chính phủ trong việc thu hút hỗ trợ của quốc tế trong các chương trình trọng điểm.
▪ ‘Sau tận cùng nỗi đau’ của người phụ nữ nhiễm HIV (28/12/2016)
▪ Người cựu binh giỏi cảm hóa thanh thiếu niên hư (27/12/2016)
▪ Khoảng lặng buồn ở Hòa An (23/12/2016)
▪ Đấu tranh vì quyền bình đẳng của LGBT: Nhiều niềm vui, không thiếu nỗi buồn (21/12/2016)
▪ Giới tính không quyết định năng lực (19/12/2016)
▪ Vượt qua ‘nỗi đau’ nhiễm HIV thành nhà hoạt động xã hội tích cực (16/12/2016)
▪ Rộng lối về cho những người lầm lỗi (15/12/2016)
▪ 'Bác sĩ' chuyên cứu sốc người nghiện ma túy (14/12/2016)
▪ Nữ quản giáo 8X ươm mầm thiện (13/12/2016)
▪ “Vì ngày mai tươi sáng”: Tổ ấm của những người nhiễm HIV ở Ninh Bình (12/12/2016)