10 năm thực hiện Luật Phòng, chống HIV/AIDS: Bước tiến lớn bảo đảm quyền lợi cho người nhiễm HIV
Báo Tiếng Chuông - 29/06/2017
Sau 10 năm thực hiện, Luật Phòng, chống HIV/AIDS đã mang lại nhiều kết quả rất tích cực, nhiều giải pháp hữu hiệu quản lý có hiệu lực, giúp hiệu quả hơn các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS trên khía cạnh xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS.

Xác định rõ HIV/AIDS là một đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với tính mạng, sức khỏe con người, tương lại nòi giống của dân tộc, tác động trực tiếp đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, trật tự và an toàn xã hội, đe dọa sự phát triển bền vững của đất nước, ngay từ năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chiến lược Quốc gia về phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn 2020. Tiếp đó, ngày 12/7/2006, Quốc hội đã ban hành Luật Phòng, chống nhiễm virus gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS)-Luật Phòng, chống HIV/AIDS.

 

Hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về truyền thông phòng, chống HIV/AIDS đã làm thay đổi nhận thức của cộng đồng đối với HIV/AIDS. Ảnh: Thùy Chi

 

Luật bảo đảm tính thống nhất pháp lý

Việc thực thi Luật Phòng, chống HIV/AIDS vào năm 2006 là một bước tiến, là điều kiện để ban hành những văn bản giúp cho công tác phòng, chống HIV/AIDS đạt hiệu quả cao hơn. Thống kê cho thấy, số lượng văn bản ban hành nhiều nhất khi Luật có hiệu lực vào năm 2007. Điều này cho thấy, Luật đã được Chính phủ và các bộ, ngành quan tâm tổ chức triển khai. Những năm tiếp theo tỷ lệ ban hành văn bản tương đối ổn định, nhằm tiếp tục giải quyết các vấn đề còn bất cập hoặc chưa được quy định.

Ngoài ra, tính kịp thời trong ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện còn thể hiện ở việc ban hành kịp thời khi có sự thay đổi về chính sách pháp luật. Cụ thể, theo quy định của Luật Phòng, chống HIV/AIDS và các nghị định hướng dẫn thi hành thì giao Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể về điều kiện để thực hiện dịch vụ xét nghiệm HIV, cũng như điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone, nên Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản để bảo đảm thực hiện xét nghiệm HIV và điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng Methadone.

Bên cạnh đó, mặc dù Luật không có quy định giao cho các bộ, ngành hướng dẫn, nhưng để đáp ứng yêu cầu của hoạt động quản lý nhà nước, đặc biệt là trong việc phối hợp liên ngành để tổ chức thực hiện Luật, liên bộ ngành đã ban hành một số văn bản như: Thông tư liên tịch số 20/2010/TTLT-BTTTT-BYT về việc hướng dẫn ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng trên đài phát thanh, truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên báo in, điện tử đối với thông tin giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS; Thông tư liên tịch hướng dẫn việc thực hiện biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV…

Văn bản thi hành Luật được ban hành với nhiều hình thức và cấp có thẩm quyền ban hành khác nhau. Tuy nhiên, tính nhất quán, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật là khá cao. Các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS được xây dựng bảo đảm tính thống nhất pháp lý theo trình tự hiệu lực pháp lý trên cơ sở của đạo luật gốc là Hiến pháp để quy định, điều chỉnh các quan hệ xã hội về lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS không có văn bản nào mâu thuẫn, xuất hiện các xung đột pháp luật.

Luật Phòng, chống HIV/AIDS được ban hành là cơ sở pháp lý quan trọng để Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ Y tế, Liên tịch ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, nhằm cụ thể hóa những quy định mang tính nguyên tắc của Luật. Về cơ bản hệ thống pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS bảo đảm tính thống nhất pháp lý, hoàn chỉnh và đồng bộ.

Đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS gồm Luật Phòng, chống HIV/AIDS và các văn bản dưới luật về cơ bản bảo đảm tính phù hợp, khả thi và đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Trong đó, nổi lên hai nội dung chính là hệ thống pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS đã tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS được triển khai đồng bộ, hiệu quả và quyền của người nhiễm HIV đã được bảo đảm tốt.

Trong Điều 6, Luật Phòng, chống HIV/AIDS đã quy định chính sách của Nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS không chỉ là nhiệm vụ của một ngành, lĩnh vực mà cần có sự tham gia của tất cả các ngành, lĩnh vực và của toàn xã hội. Đồng thời, nhà nước tạo mọi điều kiện để các tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác này. Chính vì vậy, họat động phòng, chống HIV/AIDS bao gồm cả hoạt động chuyên môn, cũng như các hoạt động xã hội về phòng, chống HIV/AIDS đã được triển khai tích cực, đồng bộ từ khi có Luật với sự tham gia của tất cả lực lượng trong xã hội, các tổ chức quốc tế, tổ chức phi Chính phủ…

Bên cạnh đó, việc quy định cụ thể các quyền của người nhiễm HIV tại Điều 4 của Luật đã giúp người nhiễm HIV được tiếp cận các dịch vụ về phòng, chống HIV thuận lợi hơn, đặc biệt là các đối tượng nguy cơ cao. Tình trạng phân biệt đối xử với người nhiễm HIV và gia đình của họ đã cải thiện, người nhiễm HIV đã được tuyển dụng, làm việc như những lao động bình thường, con của người nhiễm HIV được đến trường. Đây là một trong những bước tiến lớn trong bảo đảm quyền lợi của người nhiễm HIV.

Giúp người nhiễm HIV tiếp cận tốt hơn các dịch vụ điều trị

Đánh giá về việc thi hành pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS cho thấy, hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về truyền thông phòng, chống HIV/AIDS được thể hiện trong việc thay đổi nhận thức của cộng đồng đối với HIV/AIDS. Xuất phát từ những chuyển biến lớn trong nhận thức, nên những hành vi kỳ thị phân biệt đối xử đối với người nhiễm HIV và người bị ảnh hưởng bởi HIV đã giảm đáng kể.

Sau hơn 20 năm kể từ khi trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam, người dân đã có những hiểu biết cơ bản về phòng, chống HIV/AIDS. Kết quả của MIC4 2010-2011 cho thấy, 51,5% phụ nữ trong độ tuổi 15-24 đã xác định chính xác các đường lây nhiễm HIV và loại bỏ chính xác quan niệm sai lầm về lây nhiễm HIV.

Ngoài ra, đã có sự thay đổi quan trọng trong nhận thức về phòng, chống HIV/AIDS là người dân không còn gắn liền việc nhiễm HIV với các tệ nạn xã hội. Đây chính là kết quả của việc thay đổi nội dung truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, không còn những thông tin, hình ảnh tiêu cực về người nhiễm HIV, gắn họ với các tệ nạn xã hội khác hoặc các hình ảnh phản cảm. Từ đó, cải thiện nhận thức, giúp người dân hiểu rõ hơn về HIV, có thái độ đồng cảm, tích cực hơn với người nhiễm HIV. Người nhiễm cũng đã nhận được sự quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn của cộng đồng và các cơ quan, đoàn thể, đồng thời có cơ hội tốt hơn trong việc tiếp cận với các dịch vụ liên quan đến phòng, chống HIV/AIDS.

Công tác chăm sóc, điều trị HIV/AIDS đã được triển khai rộng khắp, tạo điều kiện cho người nhiễm HIV được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Hiện nay, điều trị ARV được triển khai tất cả tại 63 tỉnh, thành phố với 385 cơ sở điều trị, 562 trạm y tế triển khai cấp phát thuốc ARV, triển khai điều trị trong trại giam và các trung tâm giáo dục, chữa bệnh và lao động xã hội, bảo đảm tiếp cận tốt hơn cho người nhiễm HIV. Tính đến cuối năm 2016 đã điều trị cho 116.000 bệnh nhân. Công tác chăm sóc và điều trị đã triển khai kiện toàn các phòng khám ngoại trú trên toàn quốc để có thể thực hiện chi trả qua hệ thống bảo hiểm y tế. Ngoài ra, tiêu chuẩn điều trị ARV đã mở rộng, điều trị ngay cho tất cả các đối tượng nguy cơ cao, phụ nữ mang thai, bệnh nhân lao, cặp bạn tình nhiễm HIV…

Việc gia tăng số người được điều trị ARV trong thời gian qua đã làm giảm đáng kể số tử vong do AIDS hằng năm. Trong những năm 2009, số ca nhiễm HIV báo cáo tử vong hằng năm khoảng 7.000-8.000 ca, đến nay số ca tử vong báo cáo giảm khoảng 2.000-3.000 ca tử vong mỗi năm.

Cần hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ

Để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho công tác phòng, chống HIV/AIDS, ngành y tế xác định cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ. Bên cạnh đó, ban hành chính sách, chế độ hỗ trợ việc chăm sóc, điều trị người nhiễm HIV, quan tâm thích đáng đến quyền lợi của người tham gia hoạt động phòng, chống HIV/AIDS nhằm hướng tới mục tiêu 90-90-90 mà Việt Nam đã cam kết, tiến tới đạt được mục tiêu kết thúc đại dịch AIDS vào năm 2030 như Liên Hợp Quốc đề ra.

Đổi mới, đa dạng hóa và đẩy mạnh hoạt động thông tin, tuyên truyền, giáo dục pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS rộng rãi trong xã hội, đến các cộng đồng dân cư, từng người dân, gia đình, nhất là các đối tượng có hành vi nguy cơ cao, nhằm xây dựng nhận thức đúng về nguy cơ và biện pháp phòng, chống HIV/AIDS, gắn dự phòng và điều trị HIV/AIDS với xây dựng gia đình văn hóa, làng, bản văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hóa; xây dựng lối sống lành mạnh, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.

Nâng cao hiệu quả phối hợp liên ngành trong phòng, chống HIV/AIDS. Tăng cường lồng ghép phòng, chống HIV/AIDS trong các hoạt động thông tin, giáo dục truyền thông, chăm sóc và điều trị nhằm tiết kiệm nguồn nhân lực và vật lực.

Tăng mức đầu tư của Nhà nước, tích cực huy động sự đóng góp của toàn xã hội, mở rộng hợp rác nhằm tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho nhiệm vụ phòng, chống HIV/AIDS. Đồng thời, đẩy mạnh xã hội hóa công tác phòng, chống HIV/AIDS.

Trước mắt, những giải pháp mà ngành y tế đặt ra là từng bước hoàn thiện pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS thông qua việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS; tổ chức tốt việc thực hiện và áp dụng pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS; đẩy mạnh tổ chức thực hiện giải pháp về chuyên môn kỹ thuật trên cơ sở quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS…

Có thể khẳng định, Luật phòng, chống HIV/AIDS ra đời đã làm thay đổi nhận thức và hành động của các cấp lãnh đạo và người dân đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS. Quan trọng nhất, Việt Nam đã là quốc gia đi đầu trong khu vực Đông Nam Á trong việc ban hành luật pháp liên quan đến phòng, chống HIV/AIDS. Đây là khung pháp lý quan trọng, quyết định sự thành công của công tác phòng, chống HIV/AIDS trong suốt 10 năm qua.