Những nội dung chủ yếu của Nghị định số 17/2006/NÐ-CP
Các Website khác - 23/02/2006
Ngày 27-1-2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 17/2006/NÐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Ðất đai và Nghị định số 187/2004/NÐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần. Dưới đây là những nội dung chủ yếu của  Nghị định số 17.
Về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 181/2004/NÐ-CP ngày 29-10-2004 và hướng dẫn thi hành Luật Ðất đai, tập trung vào một số nội dung chính như sau:

Một là, bổ sung căn cứ giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất phải xem xét việc chấp hành pháp luật về đất đai trên cơ sở bản tự kê khai của người xin giao đất, thuê đất do Sở Tài nguyên và Môi trường xác minh về mức độ chấp hành pháp luật về đất đai. Trường hợp người xin giao đất, thuê đất là tổ chức kinh tế không thuộc sở hữu nhà nước thì phải kê khai tất cả diện tích sử dụng đất, tình trạng sử dụng đất mà Nhà nước đã giao, đã cho thuê đất đối với tổ chức kinh tế đó và các tổ chức kinh tế khác có cùng chủ sở hữu. Việc giao đất, cho thuê đất còn phải căn cứ vào suất đầu tư trên một đơn vị diện tích đất (tổng số vốn đầu tư trên đất chia cho tổng diện tích đất của dự án) và giao cho UBND cấp tỉnh căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương để quy định suất đầu tư tối thiểu trên một đơn vị diện tích đất.

Hai là, bổ sung những trường hợp Nhà nước giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án đầu tư thăm dò, khai thác khoáng sản, sử dụng đất để làm mặt bằng di dời các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ theo yêu cầu bảo vệ môi trường hoặc theo quy hoạch mà không bố trí được vào khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế; sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng, phục vụ công cộng, bao gồm các công trình giao thông, điện lực, thủy lợi, cấp nước, thoát nước, vệ sinh môi trường, thông tin liên lạc, đường ống dẫn xăng dầu, khí; giáo dục, đào tạo, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế, thể dục - thể thao, chợ.

Ba là, sửa đổi, bổ sung những trường hợp không đấu giá quyền sử dụng đất như trường hợp đưa ra đấu giá mà không có người tham gia, đấu giá ít nhất là hai lần nhưng không thành hoặc chỉ có một nhà đầu tư lập dự án xin giao hoặc thuê một diện tích cụ thể để thực hiện dự án đầu tư phù hợp quy hoạch; các trường hợp sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư xây dựng nhà ở tái định cư, xây dựng nhà ở cho người nghèo và người có thu nhập thấp thuê hoặc mua, xây dựng nhà ở công vụ; trường hợp giao đất ở cho cán bộ, công chức chuyển nơi công tác theo quyết định điều động của cơ quan có thẩm quyền; đất chưa được bồi thường, giải phóng mặt bằng.

Bốn là, bổ sung trường hợp đơn vị sự nghiệp kinh tế mà tự bảo đảm chi phí hoạt động thường xuyên được cơ quan có thẩm quyền giao nhiệm vụ xây dựng kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp, nếu được Nhà nước cho thuê đất để đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng khu công nghiệp thì cũng được cho thuê lại đất sau khi đã đầu tư kết cấu hạ tầng.

Năm là, sửa đổi về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các dự án đầu tư xây dựng kinh doanh nhà ở để bán hoặc cho thuê thì không cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho hộ gia đình cá nhân dưới hình thức bán nền mà chưa xây dựng nhà ở đối với các thành phố, thị xã, các khu đô thị mới của các thành phố, thị xã hoặc các khu đô thị mới được quy hoạch phát triển thành thành phố, thị xã. Cho phép chủ đầu tư được chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho tổ chức đối với diện tích đất đã hoàn thành việc đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng theo dự án được xét duyệt hoặc theo dự án thành phần của dự án đầu tư đã được xét duyệt; tổ chức kinh tế nhận chuyển nhượng phải sử dụng đất đúng mục đích, đúng nội dung xây dựng và tiến độ ghi trong dự án. Ðối với các khu vực khác thì trường hợp có dự án đầu tư xây dựng đồng bộ hạ tầng khu dân cư, chủ đầu tư phải hoàn thành đúng với nội dung dự án đã được xét duyệt thì mới được chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với hạ tầng đó.

Sáu là, bổ sung quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất đối với trường hợp được giao đất ở, đất làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, đất để thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Ðối với người được Nhà nước giao đất ở hoặc thuê đất để thực hiện dự án xây dựng, kinh doanh nhà ở mà được miễn hoặc giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì cũng có quyền và nghĩa vụ như trường hợp không được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Người được Nhà nước giao đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì có các quyền và nghĩa vụ như trường hợp không được miễn, giảm tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đối với loại đất có mục đích sử dụng tương ứng. Còn người được giao đất để làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, thực hiện các dự án đầu tư vì mục đích lợi nhuận mà được miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất thì chỉ có quyền và nghĩa vụ như trường hợp được Nhà nước cho thuê đất trả tiền thuê đất hằng năm đối với loại đất có mục đích sử dụng tương ứng. Trường hợp đang trong thời gian đầu tư xây dựng công trình mà người sử dụng đất không có khả năng thực hiện dự án thì Nhà nước thu hồi đất; tài sản đã đầu tư trên đất được xử lý theo quy định tại Ðiều 35 của Nghị định số 181/2004/NÐ-CP. Trường hợp dự án đã hoàn thành giai đoạn xây dựng cơ bản mà nhà đầu tư không có khả năng tiếp tục thực hiện dự án thì được bán tài sản gắn liền với đất; người mua tài sản được tiếp tục thực hiện dự án và phải sử dụng đất theo đúng mục đích đã được xét duyệt.

Nghị định số 197/2004/NÐ-CP ngày 3-12-2004 về bồi thường hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được sửa đổi, bổ sung về giá đất để tính bồi thường là giá đất theo mục đích đang sử dụng đã được UBND cấp tỉnh quy định và công bố vào ngày 1-1 hằng năm, không bồi thường theo giá đất sẽ được chuyển đổi mục đích sử dụng; giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà chưa sát với giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất thực tế trên thị trường, trong điều kiện bình thường thì UBND tỉnh quyết định giá đất cụ thể cho phù hợp. Tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất đã ứng trước tiền để thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ giải phóng mặt bằng thì được trừ số tiền đã ứng trước, mức được trừ không vượt quá số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp.

Nghị định bổ sung trường hợp hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất mà có mức sống thuộc hộ nghèo, theo tiêu chí của Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội công bố theo từng thời kỳ, thì được hỗ trợ để vượt mức hộ nghèo; mức hỗ trợ và thời gian hỗ trợ cụ thể do UBND cấp tỉnh quy định nhưng không dưới ba năm và không quá 10 năm kể từ ngày hoàn thành việc thu hồi đất.

Nghị định còn sửa đổi quy định về việc hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất nông nghiệp bị thu hồi hơn 30% diện tích đất nông nghiệp mà không được Nhà nước bồi thường bằng đất nông nghiệp tương ứng thì được hỗ trợ chi phí để phát triển ngành nghề tạo việc làm như được giao đất có thu tiền sử dụng đất tại vị trí có thể làm mặt bằng sản xuất hoặc kinh doanh dịch vụ phi nông nghiệp; giá đất được giao bằng giá đất nông nghiệp tương ứng cộng với chi phí đầu tư hạ tầng trên đất nhưng không cao hơn giá đất tại thời điểm thu hồi đất. Trường hợp không có đất để giao thì những thành viên trong hộ gia đình còn trong độ tuổi lao động được hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp, chủ yếu bằng hình thức học nghề tại các cơ sở dạy nghề. Hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất ở, phải tái định cư thì việc bố trí tái định cư phải gắn với tạo việc làm hoặc chuyển đổi nghề nghiệp như quy định ở trên.

Nghị định số 198/2004/NÐ-CP ngày 3-12-2004 được sửa đổi, bổ sung đối với trường hợp thu tiền sử dụng đất bằng 50% chênh lệch tính theo giá đất ở với thu tiền sử dụng đất tính theo giá đất nông nghiệp trong trường hợp chuyển từ đất vườn, ao trong cùng thửa đất có nhà ở thuộc khu dân cư không được công nhận là đất ở sang đất ở, đối với trường hợp tương tự nhưng chuyển sang sản xuất kinh doanh thì thu tiền sử dụng đất bằng chênh lệch giữa giá đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp với giá đất nông nghiệp.

Nghị định quy định không áp dụng miễn, giảm tiền sử dụng đất trong trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất; chuyển từ hình thức thuê đất sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh doanh, trừ trường hợp khi chuyển sang hình thức giao đất có thu tiền sử dụng đất thuộc đối tượng được miễn tiền sử dụng đất quy định tại Ðiều 12 của Nghị định số 198/2004/NÐ-CP.

Nghị định cũng bổ sung trường hợp hộ gia đình, cá nhân phải nộp tiền sử dụng đất khi được chuyển mục đích sử dụng, khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng theo quy định của pháp luật, nếu chưa đủ khả năng nộp tiền cho Nhà nước thì được ghi nợ số tiền sử dụng đất phải nộp trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, số tiền sử dụng đất ghi nợ được tính theo giá đất tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi hộ gia đình, cá nhân thực hiện các giao dịch có quyền sử dụng đất (chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất) tặng, cho quyền sử dụng đất đối với người ngoài thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự (trừ trường hợp quy định tại điểm c, khoản 2, Ðiều 110 của Luật Ðất đai) hoặc được bồi thường về đất khi Nhà nước thu hồi đất thì phải nộp cho Nhà nước số tiền còn nợ. Mọi giao dịch về quyền sử dụng đất đối với đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất còn ghi nợ tiền phải nộp cho Nhà nước đều không có giá trị pháp lý.

Ngoài một số nội dung chính nêu trên, Nghị định số 17/2006/NÐ-CP còn sửa đổi, bổ sung một số nội dung khác nữa của các Nghị định số 181/2004/NÐ-CP ngày 29-10-2004, Nghị định số 182/2004/NÐ-CP ngày 29-10-2004, Nghị định số 197/2004/NÐ-CP ngày 3-12-2004, Nghị định số 198/2004/NÐ-CP ngày 3-12-2004 và Nghị định số 187/2004/NÐ-CP ngày 16-11-2004.

NGUYỄN KHẢI
(Bộ Tài nguyên và Môi trường)