Trả lời: Theo Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ngày 18-1-2006 về việc ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng, khách sạn, nhà văn hóa, trung tâm văn hóa kinh doanh vũ trường phải có đủ điều kiện sau:
- Phòng khiêu vũ phải có diện tích từ 80m2 trở lên, cách trường học, bệnh viện, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, di tích lịch sử - văn hóa, cơ quan hành chính nhà nước từ 200m trở lên, bảo đảm các điều kiện về phòng, chống cháy nổ.
- Người điều hành hoạt động trực tiếp tại phòng khiêu vũ phải có trình độ trung cấp trở lên về chuyên ngành văn hóa, nghệ thuật.
- Trang thiết bị, phương tiện hoạt động của phòng khiêu vũ bảo đảm chất lượng âm thanh, phù hợp với quy hoạch về vũ trường của từng địa phương.
Về thủ tục cấp giấy phép kinh doanh vũ trường, Nghị định quy định: chủ khách sạn, nhà văn hóa, trung tâm văn hóa có đủ điều kiện nêu trên muốn kinh doanh vũ trường phải gửi đơn đề nghị cấp giấy phép tới Sở Văn hóa - Thông tin sở tại. Trong thời hạn 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận đơn, Sở Văn hóa - Thông tin có trách nhiệm cấp giấy phép kinh doanh; trường hợp không cấp giấy phép, phải trả lời bằng văn bản, nêu rõ lý do.
Địa điểm kinh doanh vũ trường phải niêm yết công khai nội quy hoạt động để mọi người dễ nhận biết và thực hiện (nội quy ghi rõ thời gian hoạt động, độ tuổi và trang phục của người khiêu vũ, những quy định cấm đối với người ở trong vũ trường); Bảo đảm ánh sáng trong phòng khiêu vũ trên 10Lux tương đương 01 bóng đèn sợi đốt 40W cho 20m2; Bảo đảm âm thanh vang ra ngoài phòng khiêu vũ không vượt quá quy định của Nhà nước về tiêu chuẩn mức ồn tối đa cho phép; Chỉ sử dụng những bài hát, tác phẩm âm nhạc được phép lưu hành để khiêu vũ; người khiêu vũ phải mặc trang phục lịch sự; Không để người say rượu, bia, người sử dụng các chất ma túy và các chất kích thích bị cấm sử dụng trong vũ trường; Không cho người dưới 18 tuổi làm việc hoặc vào khiêu vũ tại vũ trường; Bảo đảm các điều kiện về an ninh, trật tự.
Vũ trường không được hoạt động sau 12 giờ đêm đến 8 giờ sáng.
Nếu sử dụng nhân viên phục vụ tại vũ trường phải có hợp đồng lao động.
Nghiêm cấm các hành vi nhảy múa thoát y hoặc các hành vi khác có tính chất khiêu dâm, môi giới và mua bán dâm, mua, bán hoặc sử dụng ma túy tại vũ trường.
Khi các cơ quan, đơn vị tổ chức khiêu vũ không có mục đích kinh doanh trong nội bộ cơ quan, tổ chức mình thì không phải xin phép nhưng vẫn phải thực hiện quy định về nội dung hoạt động và bảo đảm an ninh, trật tự.
------------------
Tính khấu trừ tiền bồi thường đất
Hỏi: Theo tôi được biết, doanh nghiệp (DN) được giao đất thực hiện bồi thường, hỗ trợ đất cho người có đất bị thu hồi theo quy định của Chính phủ thì được trừ số tiền đã bồi thường đất, hỗ trợ đất vào tiền sử dụng đất phải nộp. Đến 10-10-2004, DN chúng tôi đã thực hiện bồi thường, hỗ trợ về đất cho người có đất bị thu hồi theo thỏa thuận đối với đất được giao để xây dựng xưởng sản xuất hàng xuất khẩu thì có được khấu trừ vào tiền sử dụng đất số tiền đã bồi thường, hỗ trợ hay không?
Trả lời: Tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định số 198/2004/NĐ-CP (3-12-2004) của Chính phủ về thu tiền sử dụng đất quy định: trường hợp người được giao đất thực hiện bồi thường, hỗ trợ đất cho người có đất bị thu hồi theo quy định tại Điều 3 Nghị định 197/2004/NĐ-CP (3-12-2004) của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, thì được trừ số tiền đã bồi thường đất, hỗ trợ đất vào tiền sử dụng đất phải nộp;
Căn cứ Điều 42 Nghị định 197/2004/NĐ-CP (3-12-2004) của Chính phủ thì trường hợp người được giao đất thỏa thuận được với người bị thu hồi đất về mức bồi thường, hỗ trợ theo quy định tai Nghị định này thì thực hiện theo sự thỏa thuận đó, Nhà nước không tổ chức thực hiện bồi thường, hỗ trợ.
Do đó cục thuế tỉnh đã tiếp nhận hồ sơ đất đai đủ điều kiện kê khai nộp tiền sử dụng đất của doanh nghiệp vào thời điểm Nghị định số 198/2004/NĐ-CP đã có hiệu lực thi hành thì tính thu tiền sử dụng đất theo Nghị định 198/2004/NĐ- CP (3-12-2004) của Chính phủ theo giá đất do UBND tỉnh ban hành theo Nghị định 188/2004/NĐ-CP (16-11-2004) của Chính phủ, áp dụng tại thời điểm đã tiếp nhận hồ sơ.
Trường hợp tại thời điểm 10-10-2004, doanh nghiệp đã thực hiện bồi thường, hỗ trợ về đất cho người có đất bị thu hồi theo thỏa thuận đối với đất được giao để xây dựng xuống sản xuất hàng xuất khẩu thì được khấu trừ vào tiền sử dụng đất số tiền đã bồi thường, hỗ trợ về đất theo thỏa thuận, nhưng tối đa chỉ bằng mức bồi thường, hỗ trợ về đất quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐ- CP (3-12-2004) của Chính phủ và không vượt quá số tiền sử dụng đất phải nộp ngân sách Nhà nước.
------------------
Xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng
Hỏi: Để xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch UBND cấp tỉnh cần phải dựa trên những căn cứ nào? Ai là người có thẩm quyền xem xét quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Chủ tịch UBND cấp tỉnh?
Trả lời: Theo Điều 51 của Nghị định số 53/2005/NĐ-CP ngày 19-4-2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Khiếu nại, Tố cáo và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, Tố cáo thì quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Chủ tịch UBND cấp tỉnh chỉ được xem xét lại khi có một trong những căn cứ sau đây:
Phát hiện tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung của quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng; quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng không phù hợp với các tình tiết khách quan của nội dung vụ việc khiếu nại; có vi phạm nghiêm trọng về trình tự, thủ tục khi xác minh, kết luận và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; có sai lầm nghiêm trọng về việc áp dụng chính sách, pháp luật trong quá trình giải quyết khiếu nại, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức; quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng ban hành không đúng thẩm quyền.
Căn cứ khoản 3 Điều 26 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, Tố cáo (năm 2004), khoản 3 Điều 15 Nghị định số 53/2005/NĐ-CP thì Tổng Thanh tra là người có thẩm quyền xem xét lại quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng của Chủ tịch UBND tỉnh. Khi có một trong những căn cứ tại Điều 21 của Nghị định số 53/2005/NĐ-CP thì Tổng Thanh tra có quyền kiến nghị hoặc yêu cầu người đã ban hành quyết định xem xét lại. Nếu sau 30 ngày mà kiến nghị hoặc yêu cầu không được thực hiện thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
------------------
Hưởng trợ cấp kháng chiến một lần
Hỏi: Tôi hiện nay đang hưởng trợ cấp kháng chiến hàng tháng từ tháng 1-1995. Thâm niên của tôi là 30 năm, nay tôi nghe nói có quy định của Nhà nước chuyển sang hưởng trợ cấp một lần. Vậy đề nghị cho biết trường hợp của tôi có được chuyển sang hưởng trợ cấp kháng chiến một lần không?
Trả lời: Theo khoản 2 Điều 1 Nghị định số 47/2000/NĐ-CP ngày 12-9-2000 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh số 19/2000/PLUBTVQH10 ngày 14-2-2000 sửa đổi Điều 21 của Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng thì đối tượng áp dụng là người được Nhà nước khen thưởng thành tích kháng chiến bằng các hình thức huân chương, huy chương chiến thắng hoặc huân chương, huy chương kháng chiến (hoặc cả hai hình thức nếu có) bao gồm người đang hưởng trợ cấp kháng chiến hàng tháng...
Đối tượng đang hưởng trợ cấp hàng tháng chuyển sang một lần thì thâm niên hưởng bằng thời gian tham gia kháng chiến thực tế đã trừ đi số năm đã hưởng (khoản 2 Điều 2). Mức trợ cấp đối với mỗi thâm niên tham gia kháng chiến là 120.000 đồng (Điều 3), khoản 2 Điều 4 quy định chi trả trợ cấp kháng chiến một lần từ ngày 1-1-2001 đối với đối tượng đang hưởng trợ cấp hàng tháng sang hưởng trợ cấp một lần; trong thời gian kể từ ngày Nghị định có hiệu lực đến 31-12-2000 các đối tượng đang hưởng trợ cấp kháng chiến hàng tháng vẫn tiếp tục hưởng.
Như vậy căn cứ vào quy định trên, trường hợp ông hỏi thì từ ngày 1-1-2001, trường hợp của ông sẽ được chuyển sang hưởng trợ cấp kháng chiến một lần, cách tính cụ thể là bằng số năm tham gia kháng chiến thực tế (30 năm) trừ đi số năm đã hưởng từ tháng 1-1995 đến hết tháng 12-2000 là 6 năm và số tiền ông được hưởng một lần sẽ là 24 năm x 120.000 đồng thâm niên.
|