Xét xử sơ thẩm vụ tham nhũng hàng triệu USD ở PetroVietnam
Các Website khác - 05/10/2005
Khối nhà cho 140 người trên
giàn khoan ngoài biển do PTSC và
các công ty của Trần Quang thực hiện.
Phiên toà xét xử vụ án Nguyễn Quang Thường và đồng bọn phạm các tội "Cố ý làm trái", "Tham ô" sẽ được đưa ra xét xử ngày 5-10 và kéo dài trong thời gian 10 ngày tại TAND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là vụ án được dư luận đặc biệt quan tâm trong thời gian vừa qua, bởi các bị cáo là những người đã từng giữ những chức vụ quan trọng trong một số đơn vị thuộc ngành dầu khí Việt Nam - một lĩnh vực kinh tế quan trọng của đất nước.
Từ "ông chủ" của bốn công ty...

Từ năm 1999 đến tháng 10-2001, Công ty Dịch vụ kỹ thuật dầu khí (gọi tắt là PTSC) thuộc Tổng Công ty dầu khí Việt Nam, do Nguyễn Quang Thường làm giám đốc. Cấp dưới của Thường gồm có: Nguyễn Mạnh Hùng, Trưởng Phòng thương mại; Cao Duy Chính, Phó Giám đốc kho ngoại quan; Trần Quang, Xưởng trưởng xưởng điện lạnh và vận tải, Trần Ngọc Long, công nhân của xưởng điện lạnh và vận tải.

Năm 1996, Trần Quang (cán bộ thuộc biên chế của PTSC từ năm 1985 - 2003) đã góp vốn với Mac-xim, quốc tịch Nga thành lập cùng lúc ba công ty: Talika, Leverton, Interpet, đều hoạt động ở nước ngoài để cung cấp thiết bị cho xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt Xô (VSP). Năm 1998, Quang và Mac-xim đã mở tài khoản của Công ty nói trên tại chi nhánh ngân hàng Deutsche Bank (DB) của CHLB Đức tại TP Hồ Chí Minh, đồng thời ủy quyền cho Trần Ngọc Giao làm chủ tài khoản. Cũng trong năm này, Quang và Mac-xim thành lập Công ty Interpet Việt Nam, trụ sở đóng tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (100% vốn nước ngoài), giao cho Trần Ngọc Giao làm Chủ tịch Hội đồng quản trị Mac-xim làm Giám đốc Nguyễn Lai Phong làm Phó Giám đốc. Tuy nhiên, trên thực tế cả bốn công ty này đều do Trần Quang trực tiếp điều hành. Chính công ty do Quang lập, sau này trở thành nhà thầu cung cấp hai dự án nhà block 140 chỗ và dự án sửa chữa giàn ballast Đại Hùng 1 cho VSP.

… Đến “nhà đạo diễn” tội phạm siêu hạng

Dự án xây dựng nhà block 140 chỗ nằm trong tổ hợp công nghệ trung 3 thuộc vòm Nam mỏ Bạch Hổ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt vào năm 1998. Đến năm 1999, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phê duyệt kế hoạch đấu thầu xây dựng dự án nói trên, theo phương thức đấu thầu quốc tế 2 giai đoạn. Thực hiện quyết định trên, ngày 15-5-1999, VSP đã gửi thư mời giai đoạn 1 đến 18 nhà thầu, trong đó có viện Corall (Ukraine) - một tổ chức có kinh nghiệm thiết kế các công trình trên biển và từng tham gia nhiều dự án của VSP. Do không đủ khả năng về tài chính nên khi được VSP mời, lãnh đạo Viện Corall đã đến Việt Nam để tìm đối tác liên doanh.

Thông qua Trần Quang, Nguyễn Quang Thường đã gặp lãnh đạo Viện Corall để hợp tác thành lập liên danh tham gia đấu thầu dự án nói trên. Đầu tháng 11-1999, biết tin liên danh PTSC/ Corall trúng thầu, Dương Quang Hà, Phó Tổng Giám đốc VSP đồng thời là Phó Hội đồng xét thầu đã thông qua Trần Quang để gặp Thường bàn bạc chuyện nâng giá, chiếm đoạt tiền Nhà nước. Được Trần Quang thiết kế, Thường và Hà gặp nhau tại khách sạn Sofitel Plaza, Hồ Tây, Hà Nội. Tại đây, Thường thông báo giá bỏ thầu là 15,5 triệu USD, nhưng giá “hờ” là 17,2 triệu USD. Nghe vậy, Hà nói với Thường cứ bỏ giá thầu 17,2 triệu USD vẫn trúng; Thường không chịu mà nói sẽ giảm xuống 3%, còn 16,9 triệu USD. Số tiền chênh lệch 1,4 triệu USD (16,9 -15,5 triệu USD), Thường và Hà thống nhất sẽ giao cho Trần Quang tìm cách rút ra, chia nhau.

Tiếp đó, Thủ tướng Chính phủ đã có công văn phê duyệt kết quả liên danh PTSC/Corall trúng thầu với tổng giá trị không vượt quá 17,05 triệu USD. Sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, VSP đã ký hợp đồng với PTSC thực hiện dự án, tổng trị giá là 16,99 triệu USD. Để rút được tiền chênh lệch như thoả thuận, Trần Quang tham mưu cho Thường "đá" viện Corall ra ngoài bằng cách phân chia lại công việc giữa PTSC và Corall. Thường đã giao cho Chính, Hùng, Phong trực tiếp đàm phán với Corall và ép đối tác này chỉ thực hiện phần việc thiết kế, kỹ thuật; còn mua sắm vật tư, thiết bị thi công và thanh toán tiền của dự án thì phải giao cho Thường, Quang thực hiện. Theo đó, phía PTSC thực hiện phần việc có giá trị là 8,273 triệu USD, Viện Corall là 8,723 triệu USD.

Các luật sư tham gia tranh tụng tại phiên tòa gồm: hai luật sư (LS) Phan Trung Hoài (Đoàn LS TP Hồ Chí Minh) và Vũ Bá Thanh (Đoàn LS Bà Rịa – Vũng Tàu) bào chữa cho bị can Nguyễn Quang Thường, nguyên Phó tổng giám đốc Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam (Petro Việt Nam); LS Nguyễn Minh Tâm (Đoàn LS TP Hồ Chí Minh) bào chữa cho Dương Quốc Hà - Phó TGĐ VSP; LS Chu Văn Khang (Đoàn LS Hà Nội) bào chữa cho Trần Ngọc Giao, nguyên Chủ tịch HĐQT Interpet Việt Nam và Trần Quang, nguyên Xưởng trưởng Xưởng điện lạnh (PTSC); LS Trương Thị Hòa (Đoàn LS TP Hồ Chí Minh) và Lưu Văn Tám (Đoàn LS Bà Rịa - Vũng Tàu) bào chữa cho Cao Duy Chính, nguyên GĐ Xí nghiệp cơ khí Hàng hải (thuộc PTSC); LS Bùi Quang Nghiêm (Đoàn LS TP Hồ Chí Minh) bào chữa cho Nguyễn Mạnh Hùng, nguyên Phó GĐ PTSC...


Sau đó, Thường, Quang giao cho Chính và Hùng gặp lãnh đạo viện Corall để thương lượng và hứa sẽ "tính" quyền lợi riêng sau khi hoàn tất hợp đồng nên phía Corall đồng ý chỉ thực hiện phần thiết kế và giám sát kỹ thuật trị giá 933.200 USD trong tổng giá trị hợp đồng được giao cho phía Corall là 8,723 triệu USD. Phần còn lại này, Thường chỉ đạo cho Hùng soạn thảo hợp đồng, nâng giá vật tư lên, sau đó đưa cho viện Corall ký hợp thức hoá, nhưng bị từ chối. Quang điện sang Nga cho Mac-xim đem dấu giả Corall về Việt Nam để Quang đóng vào hợp đồng. Theo kết luận của VKSNDTC, trong phi vụ này, Thường, Quang và đồng bọn đã hưởng chênh lệch 2,288 triệu USD (chứ không phải 1,4 triệu USD như dự tính ban đầu).

Cũng trong thời gian này, Trần Quang biết có dự án sửa chữa ballast Đại Hùng 1 nên đã thông báo cho Thường biết. Thường giao Quang theo dõi để tham gia đấu thầu. Tháng 6-2000, khi VSP có văn bản mời thầu, Trần Quang đã trực tiếp làm đơn dự thầu và tự ký tên đóng dấu mà không được sự ủy quyền của Thường.

Sau khi hoàn chỉnh hồ sơ dự thầu, Trần Quang đã quan hệ với Trần Thành Nam (Công ty Chiêu Ích - TP Hồ Chí Minh) tham gia dự án. Nam đã chỉnh sửa phương án sửa chữa giàn ballast và được đăng kiểm Lloyd phê duyệt. Dù phương án này do Nam xây dựng, nhưng Trần Quang đã kêu Nam lấy tên Viện Corall. Phương án này, sau đó trúng thầu và được Dương Quốc Hà ký hợp đồng với Thường trị giá 2,976 triệu USD.

Sau khi trúng thầu, Trần Quang bàn với Thường làm giả hợp đồng với Viện Corall sửa chữa giàn ballast với trị giá 2,703 triệu USD. Trên thực tế, toàn bộ phần việc này do Trần Quang thực hiện, từ việc mua sắm thiết bị vật tư và chi phí cho dự án. Quang chỉ đạo cho Trần Ngọc Giao giao cho nhân viên Interpet Việt Nam làm giả chứng từ hoá đơn đều dưới danh nghĩa của Viện Corall, nhưng thực chất số tiền này đều được chuyển vào tài khoản của Trần Quang qua công ty Leverton do Quang lập. Theo dự án ballast phải chữa là 34 tank, nhưng khi sửa chữa được 24 tank thì được đăng kiểm Lloyd chấp nhận nên VSP quyết định dừng và thanh toán cho Trần Quang số tiền tương đương 60% trị giá hợp đồng (1,551 triệu USD). Theo VKSNDTC, sau khi tính toán trừ tất cả các loại chi phí, Trần Quang còn thu lãi được hơn 900 nghìn USD.

Hơn 2 triệu USD được chia chác như thế nào?

Sau khi được PTSC thanh toán hợp đồng xây dựng dự án block 140 chỗ dựa trên những bộ hoá đơn chứng từ giả chuyển trả vào tài khoản công ty của Trần Quang số tiền hơn 6,7 triệu USD, số còn lại (hơn 1 triệu USD) chưa kịp chuyển thì vụ án bị phát hiện. Do vậy, theo các cơ quan tố tụng, trên thực tế Quang chỉ mới rút ra được hơn 1,2 triệu USD. Sau khi rút được tiền, Quang đã gặp Hà, Thường bàn bạc số tiền ăn chia. Trong đó, Hà nhận 535 nghìn USD (nhưng Hà chỉ thừa nhận 430 nghìn USD), Thường nhận 400 nghìn USD, Cao Duy Chính nhận 20 nghìn USD và 150 triệu đồng Việt Nam, Trần Ngọc Giao nhận 70 nghìn USD, số còn lại Trần Quang được hưởng hơn 171 nghìn USD.

Ngoài ra, Nguyễn Lai Phong đã nhận của Quang số tiền 20 triệu đồng Việt Nam và 40 nghìn USD. Theo lời khai của Trần Quang, số tiền 20 triệu là Quang cho với tư cách cá nhân, còn số tiền 40 nghìn USD là tiền ăn chia trong dự án block 140 chỗ, do Phong "có công" trong dự án này.

Đối với số tiền được PTSC chuyển cho Trần Quang sau khi nhận từ VSP trong dự án sửa chữa giàn ballast Đại Hùng 1, tổng cộng là 1,551 triệu USD. Sau khi cấn trừ chi phí, số tiền còn lại hơn 900 nghìn USD, Trần Quang chiếm đoạt hết.

Mặc dù đã nhận tiền của Trần Quang nhưng Nguyễn Lai Phong đã được đình chỉ điều tra sau một thời gian bị khởi tố bị can. Theo VKSNDTC, Phong chính là người đã có công trong việc tố giác hành vi phạm tội của Nguyễn Quang Thường và đồng bọn đến cơ quan An ninh kinh tế - Bộ Công an và cung cấp nhiều tài liệu quan trọng làm căn cứ để khởi tố vụ án. Hành vi này được xem là "lập công chuộc tội" vì nếu không có việc tố giác của Phong thì vụ án có thể không được phát hiện để khởi tố điều tra. Do vậy, VKSNDTC đã quyết định đình chỉ điều tra, miễn trách nhiệm hình sự đối với Phong.

Xử lý hành chính một số cán bộ của Tổng công ty dầu khí
Theo VKSNDTC, trong vụ án này, ngoài các bị can, còn có hành vi vi phạm pháp luật của một số người là Nguyễn Văn Tuyên, Trần Trọng Nội, Nguyễn Hữu Hoài, Đặng Đức Hợp, Mai Đức Toàn, Dương Tấn Trường và Đỗ Văn Niên - tất cả đều là thành viên trong tổ mở thầu ballast Đại Hùng 1 đã không phát hiện hồ sơ dự thầu của Trần Quang là không đúng thẩm quyền. Việc làm này là thiếu trách nhiệm nhưng không phải là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả làm thất thoát tài sản nên chỉ xử lý hành chính là đủ.

Đối với ông Nguyễn Giao, nguyên Tổng Giám đốc VSP-người ký văn bản báo cáo Tổng Công ty dầu khí phê duyệt kết quả đấu thầu và ông Trần Ngọc Cảnh, nguyên Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty dầu khí Việt Nam (nay là Tổng Giám đốc) đã ký văn bản phê duyệt kết quả đấu thầu dự án ballast Đại Hùng 1 vượt quá giá được duyệt. Việc làm của ông Giao, ông Cảnh là vượt quá thẩm quyền được quy định trong quy chế đấu thầu tại Ngnị định 88 của Chính phủ. Nhưng hành vi này không phải là nguyên nhân trực tiếp làm thất thoát tài sản, do vậy không đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.


Theo Pháp luật Việt Nam