Tắc nghẽn van tim - mối nguy của người mang van nhân tạo
Các Website khác - 02/06/2005
Theo dõi bệnh nhân bằng máy điện tim.

Tắc nghẽn van tim cơ học do cục máu đông là mối hiểm họa lớn nhất cho các bệnh nhân phải thay van tim nhân tạo, rất dễ gây tử vong. Để đề phòng, người được thay van tim cơ học nên chú ý theo dõi âm thanh do van phát ra nhằm phát hiện những bất thường.

Việc điều trị bệnh tim, đặc biệt là phẫu thuật thay van, bắc cầu mạch vành, ghép tim... đã cứu sống nhiều người bệnh. Tuy vậy, số bệnh nhân tử vong vẫn còn khá cao. Có nhiều nguyên nhân khiến bệnh nhân tử vong sau khi đã phẫu thuật thay van tim, trong đó có biến chứng tắc van tim cơ học do khối máu cục.

Hiện nay, thay van tim là phẫu thuật khá phổ biến. Tại Mỹ mỗi năm có khoảng 300.000 bệnh nhân được thay van tim. Ở Việt Nam, kỹ thuật này cũng không còn xa lạ. Bệnh viện Việt Đức thực hiện thay van tim từ những năm 60 của thế kỷ trước, hiện mỗi ngày thay van tim cho 2-3 người. Van để thay gồm có 2 loại là van tim sinh học và van tim cơ học.

Mặc dù chất lượng van tim, kỹ thuật mổ, dùng thuốc điều trị, chống đông... đã được cải thiện nhưng trong 10 năm đầu sau thay van, có tới 35% bệnh nhân gặp trục trặc liên quan đến van như máu cục, tan máu, quá sản mô, viêm nội tâm mạc... Với những bệnh nhân mang van tim cơ học, nguy cơ huyết khối gây kẹt van là rất cao; nếu không phát hiện và xử trí sớm sẽ có thể gây tử vong. Vì vậy những người này phải dùng thuốc chống đông kéo dài. Van tim bị kẹt thường do không dùng thuốc chống đông, hoặc dùng không đúng liều, khiến máu đọng lại, làm cho van tim di động kém hoặc không di động được. Ngay cả khi dùng thuốc chống đông theo đúng chỉ định, vẫn có tới 4% bệnh nhân bị biến chứng này, nguyên nhân là loạn nhịp tim, do xơ nội mạc cơ tim... làm rối loạn dòng chảy qua van và tạo nên cục máu đông.

Trước đây, khi chưa phát triển kỹ thuật chẩn đoán, có tới 50% ca tử vong do kẹt van cơ học chỉ được phát hiện nguyên nhân khi xét nghiệm tử thi. Do vậy, vấn đề chẩn đoán sớm kẹt van tim để có thái độ xử trí là rất quan trọng. Các biểu hiện mà người bệnh có thể nhận thấy sớm nhất là thay đổi tiếng van nhân tạo. Thường sau khi thay van, bệnh nhân có thể nhận thấy có tiếng van chuyển động tạo nên tiếng "click”. Nếu có kẹt van tim, tiếng động của van sẽ thay đổi, thậm chí có thể mất tiếng click này. Trường hợp nặng, bệnh nhân có biểu hiện phù phổi cấp, khó thở, ho ra bọt hồng, hoặc tim đập nhanh, gan to... Chẩn đoán bằng siêu âm màu có thể thấy hình ảnh huyết khối trên van, van kém di động hoặc không di động do huyết khối bám chặt, nhưng trường hợp khối máu cục nhỏ thì khó xác định. Với kỹ thuật siêu âm tim qua thực quản, có thể phát hiện chính xác ngay cả với khối máu cục nhỏ. Ngoài ra, nên kết hợp chụp phim X-quang phổi, xét nghiệm đông máu... khi chẩn đoán máu cục và kẹt van tim.

Nếu máu cục nhỏ, chưa có biểu hiện suy tim, phù phổi cấp thì có thể điều trị bằng thuốc chống đông, tiêu huyết khối. Trường hợp cục máu đông lớn hơn 5 mm, gây rối loạn huyết động nặng thì cần phẫu thuật càng sớm càng tốt để lấy bỏ máu cục, chỉnh van hoặc thay van khác.

Tắc nghẽn van tim cơ học là mối hiểm họa lớn nhất cho các bệnh nhân phải mang van tim nhân tạo. Để phòng tránh biến chứng này, bệnh nhân phải dùng thuốc chống đông và theo dõi thường xuyên tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sĩ. Nếu có biểu hiện nghi ngờ kẹt van như thay đổi tiếng click của van, khó thở, cần đưa người bệnh đến bệnh viện ngay để được xử trí kịp thời.

BS Nguyễn Đức Chính, Sức Khỏe & Đời Sống