Vào những năm 1960, cơ sở chiến tranh vi trùng Mỹ bắt đầu chú ý nghiêm túc đến những tiến bộ mới trong công nghệ sinh học và công nghệ gene. Các nà khoa học biết rõ rằng các nhân tố lây nhiễm có thể được biến thành những vũ khí sinh học chết người, có thể được dùng để chống lại dân thường trong thời chiến. Sản xuất vũ khí sinh học rẻ hơn nhiều so với các vũ khí nguyên tử và vũ khí thông thường, và có ưu thế rõ rệt trong việc giết người mà không phá hủy tài sản.
Một nhóm các chuyên gia chiến tranh vi trùng, khi xuất hiện trước một ban của Liên Hiệp Quốc năm 1969 đã ước tính chi phí cho hoạt động giết người quy mô lớn chống lại dân thường sẽ lên đến 2000 đô la trên một ki lô mét vuông với vũ khí thông thường, 800 đô la với vũ khí hạt nhân, 600 đô la với vũ khí hơi ngạt và 1 đô la với vũ khí vi trùng.
Người được giải Nobel, giáo sư sinh học Sal Luria tại Viện Công nghệ Massachusetts, là một trong những nhà vi sinh vật học đầu tiên lên tiếng chống chiến tranh vi trùng. Chạy trốn khỏi châu Âu ngay trước chiến tranh Thế giới thứ hai, Luria hiểu rất rõ rằng người ta có thể sử dụng y học để giết người như thế nào. Ông cảnh báo rằng các vũ khí sinh học công nghệ gene có tiềm năng “làm suy thoái chất lượng gene của toàn thể dân chúng”.
Trong một bài tiểu luận năm 1968 nhan đề “Nhà vi sinh vật học và các cơ hội của mình”, Luria khẩn cầu các thành viên của Hội các nhà vi sinh vật học của Mỹ xét lại vấn đề đạo đức của việc họ nguy hiểm tham gia vào nghiên cứu quân sự lén lút. Bắt đầu trong những năm 1950, một ủy ban cố vấn của hội đã hợp tác với phòng thí nghiệm chiến tranh vi trùng của quân đội ở Fort Detrick, đóng ở Federick, bang Maryland.
Ông giáo sư sinh học can ngăn “Việc quyết định nghiên cứu hay không nghiên cứu chiến tranh vi trùng, và nghiên cứu liên quan đến chiến tranh nói chung, chắc chắn là một vấn đề cá nhân. Ý thức được những vấn đề khó khăn liên quan bắt ta phải cực kỳ dè dặt khi đưa ra những phán xét quan trọng liên quan hoặc với chính những người tiến hành công cuộc nghiên cứu đó hay những người mong muốn tách mình khỏi công việc đó”. Ý kiến cá nhân của Luria là hội không nên kết hợp với phòng thí nghiệm chiến tranh vi trùng ở Fort Detrick và ủy ban đó phải giải tán.
Năm 1969, tiến sĩ Donald M. MacArthur xuất hiện tại cuộc điều trần của Quốc hội về chiến tranh hóa học và chiến tranh vi trùng. Là thứ trưởng Bộ Quốc phòng, ông chịu trách nhiệm quản lý các chương trình nghiên cứu và công nghệ như bộ phận đẩy tên lửa và đạn đạo, công nghệ vật liệu, các khoa học về y ọc và sự sống, các khoa học xã hội và hành vi, khoa học môi trường và công nghệ hóa học.
Donald MacArthur tuyên bố rằng các chuyên gia chiến tranh vi trùng có thể phát triển một loại “vi trùng siêu đẳng” tạo bằng công nghệ gene, sẽ rất khác với bất kỳ loại vi trùng nào trước đây mà nhân loại đã biết. Tác nhân đó sẽ giết người có hiệu quả cao vì hệ thống miễn dịch của người sẽ bất lực trước loại vi sinh vật siêu đẳng đó. Lời xác nhận đó được đưa ra ở Washington trước một tiểu ban của Ủy ban phân bổ ngân sách, Hạ nghị viện và Ủy ban phân bổ ngân sách Bộ Quốc phòng năm 1970, vào ngày 1 tháng 7 năm 1969.
Khi được hỏi về chi phí và thời gian cần để triển khai chương trình chiến tranh vi trùng đó, tiến sĩ MacArthur trả lời rằng một nhóm nỏ các nhà sinh học phân tử đã xem xét vấn đề này và cung cấp các chi tiết sau đây :
“1- Mọi tác nhân sinh học cho đến nay là những đại diện của bệnh dịch xảy ra trong tự nhiên, và như vậy được các nhà khoa học toàn thế giới biết đến. Chúng sẵn có cho các nhà khoa học có trình độ nghiên cứu nhằm các mục đích tấn công hay tự vệ.
2- Trong vòng 5 – 10 năm tới, có lẽ có thể làm ra một vi sinh vật lây nhiễm mới có thể khác về những phương diện quan trọng nào đó với bất kỳ sinh vật gây bệnh nào đã biết. Điều quan trọng nhất trong đó là nó sẽ có thể rất khó kiểm soát đối với các quá trình miễn dịch và trị liệu mà chúng ta vẫn dựa vào đó để phòng chống các ảnh hưởng của bệnh truyền nhiễm.
3- Một chương trình nghiên cứu để khảo sát tính khả thi của việc này có thể được hoàn thành trong gần 5 năm với tổng chi phí 10 triệu đô la.
4- Việc thiết lập một chương trìn như vậy sẽ rất khó khăn. Sinh học phân tử là một khoa học tương đối mới. Không có nhiều nhà khoa học giỏi trong lĩnh vực này. Hầu hết họ đều làm việc ở các phòng thí nghiệm của các trường đại học, và nói chung được trợ giúp đầy đủ từ các nguồn khác với Bộ Quốc phòng. Tuy nhiên, người ta thấy có thể khởi đầu một chương trình thích hợp thông qua Viện hàn lâm Khoa học Quốc gia - Hội đồng nghiên cứu Quốc gia (NAS-NRC). Vấn đề này được bàn với NAS-NRC, và đã có những kế hoạch dự kiến để khởi đầu chương trình. Tuy nhiên, việc cắt giảm các quỹ nghiên cứu hóa/sinh, tăng sự phê phán chương trình hóa/sinh và việc chúng tôi lưỡng lự khi đưa NAS-NRC tham gia vào chương trình gây tranh cãi này khiến chúng tôi trì hoãn ó trong hai năm qua …
Không lấy làm lạ là Bộ Quốc phòng, với mạng lưới rộng lớn của các bệnh viện và các nhà nghiên cứu của mình, là cơ quan cấp liên bang chủ yếu tham gia vàoviệc nghiên cứu AIDS, được Quốc hội tài trợ. Theo tờ Thời báo New York, “Quốc hội thường đặt ra các ưu tiên nghiên cứu y học cấp quốc gia, thông thường sau khi có sự vận động hành lang mạnh mẽ của các nhà khoa học, các công ty và các nhóm quyền lợi”. Một số nhà nghiên cứu AIDS phàn nàn rằng các nhà lập pháp đã để những người vận động hành lang của các tập đoàn quyết định những nghiên cứu và điều trị AIDS nào sẽ được ủng hộ, dưới áp lực của đồng đô la. Giống như ung thư, AIDS là một món kinh doanh lớn. Và trước những món tiền lợi nhuận lớn liên quan rất nhiều đến nền công nghiệp AIDS hàng tỷ đô la, có lẽ các nhà chính trị sẽ tiếp tục không đếm xỉa đến ý nghĩa khoa học trong việc tìm kiếm cách chữa trị AIDS.
Nước Mỹ có kho vũ khí hóa học và vi trùng lớn nhất thế giới. Kho vũ khí sinh học của chúng ta chứa khí hơi ngạt và cháy da đủ để giết mỗi người trên hành tinh này 5.000 lần. Tuy nhiên, ít người biết đến các cuộc thử nghiệm chiến tranh vi trùng lén lút chống lại các công dân Mỹ do các cơ quan chính phủ, đặc biệt là quân đội và CIA tiến hành. Các số liệu được phân loại trước đây thu được thông qua Điều luật tự do thông tin đã tiết lộ hơn 200 cuộc thử nghiệm nhằm vào các thường dân và nhân viên quân sự.
Các chi tiết về một số cuộc thử nghiệm sinh học bí mật đó được đề cập đến trong cuốn sách Một hình thức giết người cao hơn (1982) do Robert Harris và Jeremy Paxman viết. Nghiên cứu hiển nhiên về chiến tranh vi trùng này là một chứng cớ rõ ràng cho sự vô nhân đạo của con người đối với con người, và cuốn sách của Harris và Paxman là cần thiết đối với mọi người quan tâm đến việc bảo vệ hành tinh chúng ta khỏi “hình thức giết người cao hơn” bằng sinh học đó.
Ví dụ “tháng 8 năm 1977, CIA đã thừa nhận có không ít ơn 149 dự án nỏ, bao gồm các cuộc thử nghiệm để xác định ảnh hưởng của ma tuý lên hành vi của con người; công trình về các máy phát hiện nói dối, thôi miên và điện giật; và phân phát lén lút các chất liệu liên quan tới ma túy. Bốn mươi tư trường chuyên nghiệp và đại học, 15 cơ sở nghiên cứu, 12 bệnh viện và phòng khám chữa bệnh và 3 cơ sở hình sự đã được đưa vào tham gia”. Trong các cuộc thử nghiệm tẩy não “MKULTRA” lén lút, các nạn nân đã bị nhử vào các buồng kách sạn để quan hệ với kẻ mãi dâm, rồi bị các nhân viên CA cho uống ma túy và theo dõi.
Các cuộc tấn công bằng vũ khí vi trùng của giới quân sự chống lại những cộng đồng người Mỹ không biết nghi ngờ vào những năm 1950 và 1960 là những sự thật đã được ghi lại. Khét tiếng nhất là cuộc tấn công sinh học của quân đội Mỹ trong sáu ngày vào San Francisco, trong đó những đám mây vi khuẩn có hại tiềm tàng đã được phun trên thành phố. Mười hai người đã có triệu chứng sưng phổi do các vi trùng truyền bệnh, và một ông già đã chết do cuộc tấn công sinh học này.
Trong các cuộc thử bí mật khác, vi khuẩn được phun vào các đường xe điện ngầm ở thành phố New York; vào các đám đông ở một sân bay Washington D.C, và lên các đường cao tốc ở Pennsylvania. Việc thử nghiệm chiến tranh vi trùng cũng diễn ra ở các căn cứ quân sự ở Virginia, ở Key West, Florida, và ngoài khơi bờ biển California và Hawaii.
Có lẽ người ta không bao giờ biết phạm vi đầy đủ của các chương trình lén lút đó. CIA thừa nhận đã hủy và xé đi một cách phi pháp nhiều tài liệu buộc tội. Dẫu sao thì những báo cáo có tính học thuật về sự lạm dụng y tế của các cơ quan chính phủ khôgn chỉ ở Mỹ mà trên toàn thế giới cũng dần dần được đưa ra ánh sáng.
Những phát giác gây chấn động về việc các thầy thuốc dùng y khoa tra tấn, với sự đồng ý của chính phủ, được trình bày trong cuốn Cuộc hành trình vào sự điên rồ : Câu chuyện thật về kiểm soát tâm trí và lạm dụng y tế bí mật của CIA (1989). Tóm tắt công trình nghiên cứu của mình, nhà văn y học Gordon Thomas tiết lộ rằng “không có cái gì khiến tôi sẵn sàng chịu đựng sự kinh hãi hàng ngày trong hơn hai năm, thường mười hai đến mười bốn giờ mỗi ngày, đối đầu với sự thật khôg thể tránh được là các bác sĩ đã làm việc tra tấn – và vẫn đang làm việc đó. Vào cuối cuộc nghiên cứu, tôi đã có thể hiểu rõ tại sao các nhà điều tra khác đã lảng tránh chủ đề này : đó thực sự là những cơn ác mộng.”
Có phải AIDS là chiến tranh vi trùng ? Đối với những ai nghi vấn liệu Chính phủ Mỹ có khả năng làm hại các công dân của chính họ không, câu trả lời đã quá rõ ràng.
Đầu thập niên 1970, chương trình chiến tranh vi trùng của quân đội Mỹ đã tăng cường, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu AND và “ghép gene”. Để xoa dịu mối lo sợ của giới phê bình, tổng thống Richard Nixon tuyên bố từ bỏ chiến tranh vi trùng, trừ “nghiên cứu phòng vệ y tế”.
Năm 1971, khi Nixon chuyển một phần lớn Đơn vị chiến tranh vi trùng của quân đội sang Viện Ung thư Quốc gia, các cuộc thí nghiệm chiến tranh vi trùng bí mật tiếp tục dưới vỏ bọc nghiên cứu ung thư. Sử dụng những kỹ thuật tân tiến nhất của công nghệ gene và nuôi cấy tế bào trong phòng thí nghiệm, các nhà vi rút học ung thư đã học cách “nhảy” mầm ung thư động vật từ một loài vật này sang loài khác. Các vi rút gà được đặt vào các tế bào thận cừu on. Các vi rút khỉ mõm chó được ghép vào các tế bào máu người. Những sự kết hợp là vô tận. Trong quá trình chuyển đổi đó, những dạng ung thư mới, sự suy giảm miễn dịch và các nhiễm khuẩn cơ hội đã được sản sinh trong các động vật.
Như dự đoán của các chuyên gia chiến tranh vi trùng, con quái vật “vi trùng siêu đẳng” đã được tạo ra có tác động chết người đến hệ miễn dịch.
Khi tôi gặp Robert Strecker vào mùa hè năm 1986 thì ông đã công bố bí mật điều ông tin AIDS là một cuộc chiến tranh vi trùng. Vào lúc đó, ít người để ý đến ông và ông hiếm có dịp nói lên quan điểm của mình trong giới truyền thông. Tuy vậy, chẳng bao lâu sau khi ông công bố rằng bệnh dịch này do con người tạo ra, những câu chuyện lạ lùng về AIDS bắt đầu xuất hiện trên báo chí.
Mùa thu năm 1986, những người Xô viết công bố rằng AIDS là kết quả của chiến tranh vi trùng của Mỹ vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Tờ Thời báo (số ra ngày 17 tháng 11) đăng một mẫu tin ngắn về câu chuyện này, gán cho nó là “tuyên truyền lây nhiễm” và cho thuyết AIDS do con người tạo ra của Robert Strecker chỉ là “suy đoán”.
Một bài xã luận trong tờ Thời báo Ấn Độ ở New Delhi ra cùng ngày thực sự lưu ý những lời tối cáo chiến tranh vi trùng, thuyết phục độc giả hãy chú ý tới mối nguy hiểm nghiêm trọng của chiến tranh vi trùng. “Có thể tin được rằng các vi trùng chết người đó đang được chế tạo thông qua công nghệ gene và một số vi trùng có thể bị rò rỉ từ các phòng thí nghiệm, có thể là tình cờ hay vì lý do khác. Tất cả những điều đó gợi cho ta nghĩ rằng những tiến bộ mới trong công nghệ sinh học và công nghệ gene đang được nhanh chóng quân sự hóa. Những hậu quả của điều này quá kinh khủng, làm ta không dám nghĩ tới. Những vi trùng chết người đó, cũng như các vũ khí hạt nhân, là những tác nhân hủy diệt hàng loạt. Cách xử lý duy nhất đối với chúng là cấm và loại bỏ.”
Có phải AIDS là chiến tranh vi trùng ? Charles Piller, một phóng viên điều tra, và Keith R.Yamamoto, một nhà sinh học phân tử, bàn ngắn gọn câu hỏi này trong cuốn sách nhiều thông tin của họ về chiến tranh vi trùng nhan đề Chiến tranh gene : Sự kiểm soát của giới quân sự đối với các công nghệ gene mới (1988). “Những người Xô viết đã gọi AIDS là một cuộc thử nghiệm chiến tranh vi trùng của Mỹ tuột khỏi sự kiểm soát. Tuy khôgn có chứng cớ giúp cho lời tố cáo, việc sử dụng công nghệ gene để đánh gục hệ thống miễn dịch của cơ thể người là hoàn toàn khả thi và nhất quán với một số nghiên cứu của Mỹ”. Piller và Yamamoto nhấn mạnh rằng những phát hiện của sinh học phân tử đã được quân đội lợi dụng, dẫn tới những khả năng hoàn toàn mới trong việc sản xuất các chất độc, vi rút và vi khuẩn chết người.
Thượng nghị sĩ George S. Mcgovern ca ngợi cuốn Chiến tranh gene như “một cuốn sách hấp dẫn về những nguy cơ và hậu quả kỳ quái của công nghệ gene được vận dụng cho tranh vi trùng. Cuốn sách này cần được đọc,suy ngẫm và hành động thích hợp bởi tất cả những ai lo lắng về tương lai của sự sống trên hành tinh chúng ta thì đây là một thách thức đặc biệt để các cộng đồng khoa học và y tế hành động”.
Trong một phần của chương trình chiến tranh sinh học của Saddam Hussein, các máy bay quân sự đã rãi hơi ngạt xuống các làng cô lập của người Cuốc. Trong vài phút, hàng trăm nông dân đã chết. Hơn một trăm ngàn người Cuốc được cho là đã chết trong chương trình diệt chủng của Hussein. Mặc dầu có việc giết chóc như thế, Chính phủ Mỹ tiếp tục cho I rắc vay nhiều tỷ đô la, những món vay mà có lẽ sẽ khôgn bao giờ trả.
Trong năm 1991, các nhà lãnh đạo trên thế giới đặt câu hỏi liệu Hussein có sử dụng vũ khí sinh học trong chiến tranh vùng Vịnh không. Trong khi họ còn suy nghĩ, những người Ixraen lo lắng phát hoảng đã phát mặt nạ phòng độc để chuẩn bị cho các cuộc tấn công hơi ngạt của Saddam. Đến tận năm 1992, người ta nghi ngờ rằng I rắc đang cung cấp các loại thuốc đã bị làm nhiễm trùng cho người Cuốc, dẫn tới “căn bệnh bí hiểm” chết người với những triệu chứng ỉa chảy ra máu và hỏng thận hoàn toàn.
Những người Mỹ rùng mình khi giới truyền thông công bố tiềm lực kho vũ khí sinh học và hóa học của I rắc phần lớn do Chính phủ Mỹ cung cấp. Không có một lời nào nhắc đến khối lượng chứa trong khu vũ khí vi trùng của quân đội Mỹ, trừ việc cam đoan với công chúng Mỹ rằng chúng ta có khả năng giết toàn bộ dân trên thế giới 5.000 lần trở lên.
AIDS có sinh ra từ phòng thí nghiệm không ? Ý kiến cho rằng lấy vi rút gây ung thư của động vật và cố tình tiêm vào người nghe thật khó tin. Tuy nhiên, đó đúng là cung cách tiến hành các thử nghiệm công nghệ gene của con người hiện đại. Năm 1990, sau ba thập kỷ thẻ nghiệm động vật ghép gene, các nhà khoa học đã sẵn sàng bắt đầu các cuộc thử chính thức lên con người.
Mục tiêu là một bé gái nặng 16 kg có hệ thống miễn dịch suy yếu vì khiếm khuyết về gene. Để chỉnh lại sự bất thường về gene, các nhà khoa học thoạt tiên lấy các tế bào từ một người khỏe mạnh và cho một vi rút ung thư động vật nhiễm vào các tế bào bình thường đó. Vi rút lây nhiễm là một vitrovirus bệnh bạch cầu ở chuột “đã bị làm yếu đi” và “được cấy ghép vào” vật liệu di truyền trong các tế bào thường của người khỏe mạnh.
Tạp chí Thời báo (số ngày 24-9-1990) giải thích rằng vitrovirus chuột thuộc cùng một loại vi rút như vi rút HIV. Các tế bào nhiễm vi rút từ chuột sau đó được cho “chạy vào” và niễm nơi nuôi cấy các tế bào của cô bé. Các tế bào nuôi cấy của cô bấy giờ chứa gene cầnthiết, được nhân bản vô tính. Trong quá trình nhân bản vô tính, nhiều tỷ bản sao các tế bào cần thiết đã được sản xuất. Các tế bào nhân bản vô tính nhiễm mầm ung thư chuột được biến đổi gene, bây giờ được cấy trở lại vào cơ thể cô bé.
Nếu cuộc thử nghiệm thành công, cô bé sẽ sống. Cô sẽ luôn luôn mang các vệt ung thư chuột trong tế bào của mình. Vi rút ấy không phải từ châu Phi mà từ một phòng thí nghiệm.
Công nghệ gene mới là chiến thắng của y học. Tuy nhiên, tờ Thời báo cảnh báo rằng công nghệ này có thể được sử dụng cho các mục đích xấu. “Sự phản đối chắc chắn sẽ dâng cao nếu các nhà khoa học quay sang một mục đích hãy còn xa vời : biến đổi di truyền của các tế bào tinh trùng và trứng”. Những sự nhào nặn kiểu kỷ nguyên mới đó sẽ ảnh hưởng đến sự kế thừa gene của các thế hệ tương lai, nảy sinh nững vấn đề đạo đức mới và gây ra những rủi ro không lường được”
Phần lớn mọi người không nhận ra sự thật là di sản gene của những người đàn ông đồng tính đã thay đổi. Có tới một nửa số đàn ông đồng tính có các tế bào tổ chức và máu đã bị thay đổi vĩnh viễn bởi loại vi rút chết người “đến từ châu Phi”. Mối lo lắng của Sal Luria về “sự xuống cấp” chất lượng gene của toàn thể dân chúng giờ đây đã thành sự thật.
Đầu những năm 1990, có hai điều đã rõ ràng. Câu chuyện khỉ là chuyện làm ăn lớn. Và phi vụ làm ăn từ khỉ có thể được dùng để huỷ diệt nhiều người trên hành tinh này.
▪ Âm mưu diệt chủng bằng AIDS. Phần 5: Phi vụ làm ăn từ con khỉ (05/09/2005)
▪ Âm mưu diệt chủng bằng AIDS. Phần 3: Máu người đồng tính (05/09/2005)
▪ Âm mưu diệt chủng bằng HIV/AIDS - Kỳ 2: Cuộc thử nghiệm với người đồng tính (05/09/2005)
▪ Âm mưu duyệt chủng bằng HIV/AIDS? Kỳ 1: Nạn diệt chủng (01/09/2005)
▪ Mỹ, Trung Quốc đẩy mạnh hợp tác song phương chống AIDS (01/09/2005)
▪ Sống chung với HIV: triển vọng sống sót lâu dài (30/08/2005)
▪ Trung Quốc: Giáo sĩ Hồi giáo tuyên truyền về HIV/Aids ở Ningxia (30/08/2005)
▪ Ấn Độ: Lực lượng an ninh biên giới đối mặt với đại dịch AIDS (30/08/2005)
▪ Nhật Bản tài trợ cho Tanzania 3.2 tỉ yên phòng chống HIV/Aids (29/08/2005)
▪ Úc: tình hình lây nhiễm HIV/AIDS lại gia tăng (29/08/2005)