Nhìn lại năm năm qua
Các Website khác - 15/02/2006
“Ðánh giá đúng những việc đã làm được và chưa làm được của một nhiệm kỳ Ðại hội Ðảng là vấn đề lớn, khó và quan trọng, cần có quan điểm lịch sử và phương pháp khoa học. Thấy được những ưu điểm trong năm năm qua cũng phải thấy cả những khuyết điểm.” Bài viết của ông HỒNG HÀ, Tổng Thư ký Hội đồng  Lý luận Trung ương.
Những thành tựu rất quan trọng

Ðánh giá đúng những việc đã làm được và chưa làm được của một nhiệm kỳ Ðại hội Ðảng là vấn đề lớn, khó và quan trọng, cần có quan điểm lịch sử và phương pháp khoa học. Thấy được những ưu điểm trong năm năm qua cũng phải thấy cả những khuyết điểm. Nhưng thực tiễn luôn luôn vận động, nắm bắt được quy luật của nó không dễ. Cái mới, cái tốt, cái hay ra đời phải có những điều kiện nhất định và những yếu tố cần thiết, không thể cứ mong muốn chủ quan là có ngay được. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật và thái độ nghiêm túc, Dự thảo Báo cáo chính trị của BCH T.Ư khóa IX trình Ðại hội X của Ðảng (sau đây viết gọn là "Dự thảo") đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Ðại hội IX của Ðảng. Ðiều đó giúp ích cho việc rút kinh nghiệm, xác định nhiệm vụ và biện pháp phấn đấu trong năm năm tới.

Năm năm qua (2001-2005) mở đầu thế kỷ 21 là những năm phát triển rất đáng ghi nhớ đối với toàn Ðảng, toàn dân ta. Dự thảo khái quát tình hình: "Năm năm qua, bên cạnh những thuận lợi cơ bản do tiến trình đổi mới tạo ra, nước ta cũng gặp không ít khó khăn, thách thức". Thực lực nền kinh tế tiếp tục được tăng cường. Chính trị - xã hội ổn định. Quan hệ đối ngoại được mở rộng. Ðộc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia được giữ vững. Nhưng, tình hình thế giới và khu vực năm năm qua diễn biến hết sức phức tạp. Hoạt động khủng bố xen kẽ chiến tranh cục bộ, xung đột sắc tộc, tôn giáo, diễn ra ở một số nước. Cạnh tranh kinh tế thương mại, tranh chấp biên giới, lãnh thổ, biển đảo và tài nguyên thiên nhiên giữa nhiều nước ngày càng gay gắt. Nền kinh tế thế giới phục hồi chậm. Giá cả trên thị trường quốc tế của nhiều nguyên liệu, vật liệu, hàng hóa, đặc biệt là giá dầu mỏ, liên tục biến động. Nước ta phải chịu đựng những điều kiện thời tiết khắc nghiệt, bão lũ, hạn hán và những dịch bệnh nguy hiểm ở người và gia cầm liên tiếp xảy ra. Trong bối cảnh đó, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta đã vượt qua nhiều gian nan, trở ngại, làm được nhiều việc, trong đó có những thành tựu nổi bật trên một số lĩnh vực chủ yếu:

Trên lĩnh vực kinh tế:

Trong năm năm 1996-2000, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội ở Ðông-Nam Á (1997-1999), nền kinh tế nước ta suy giảm, chỉ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7%/năm. Trong năm năm 2001-2005, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước: tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2001 tăng 6,9%, năm 2002 là 7,08%, năm 2003 là 7,34%, năm 2004 là 7,8% và năm 2005 là 8,4%; bình quân năm năm là 7,5%/năm, một mức tăng trưởng khá cao trong khu vực và thế giới.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005 (kế hoạch là 38-39%); tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp đã giảm từ 24,5% xuống còn 20,9% (kế hoạch 20-21%); tỷ trọng dịch vụ ở mức 38,1% (kế hoạch 41-42%).

Ðiều đáng mừng là, lần đầu tiên trong nền kinh tế nước ta từ khi đổi mới, vốn đầu tư toàn xã hội tăng khá nhanh, vượt 18,2% so với kế hoạch. Vốn đầu tư của dân tăng mạnh; tỷ lệ vốn đầu tư phát triển so với GDP tăng từ 35,4% năm 2001 lên gần 39% năm 2005. Vốn đầu tư trong nước tăng, chiếm 72% tổng vốn đầu tư xã hội, làm tăng đáng kể năng lực sản xuất kinh doanh, góp phần hoàn thành và đưa vào sử dụng nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nền kinh tế.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hầu hết các ngành kinh tế đều tăng trưởng mạnh. Một số ngành có bước đột phá, tiêu biểu như các ngành bưu chính - viễn thông, khai thác than, đóng tàu biển, hàng không dân dụng.

Trên lĩnh vực kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế:

Xuất khẩu, nhập khẩu có tốc độ tăng trưởng khá. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm năm đạt hơn 110,6 tỷ USD, tăng hơn 17%/năm, riêng năm 2005, vượt ngưỡng 30 tỷ USD, gấp đôi so với năm 2001, mặc dù một số hàng chủ lực bị cạnh tranh mạnh trên thị trường thế giới. Thị trường xuất khẩu được mở rộng sang nhiều nước và khu vực, nhất là Hoa Kỳ, với kim ngạch thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ năm 2005 đạt 7,6 tỷ USD. Xuất khẩu bình quân đầu người đạt 380 USD năm 2005, gấp đôi năm 2000, trong khi xuất khẩu bình quân đầu người của 59 nước thu nhập thấp trên thế giới là 92 USD. Năm 2005, xuất khẩu Việt Nam đứng thứ nhất trên thế giới về hạt tiêu, thứ nhì về gạo, cà-phê, hạt điều, thứ tư về cao-su. Nhập siêu hàng hóa năm năm tuy ở mức cao, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát được của Nhà nước và có xu hướng giảm dần trong ba năm gần đây. Nước ta có quan hệ buôn bán với 222 nước và vùng lãnh thổ, hàng hóa Việt Nam đã có mặt ở trên 160 nước và vùng lãnh thổ. Một số doanh nghiệp của ta đã đầu tư ra nước ngoài.

Vốn đầu tư từ 64 quốc gia và vùng lãnh thổ đưa vào nước ta liên tục tăng qua các năm: năm 2001, cấp mới và tăng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là 3,2 tỷ USD, năm 2002 là 3 tỷ, năm 2003 là 3,2 tỷ, năm 2004 là 4,5 tỷ, năm 2005 là 6 tỷ. Các doanh nghiệp FDI đóng góp khoảng 15,5% GDP của nước ta, chiếm khoảng 50% kim ngạch xuất khẩu (kể cả dầu khí), đóng góp gần 34% tổng thu ngân sách nhà nước (kể cả dầu khí), tạo việc làm cho khoảng 830.000 lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp. Năm 2005, vốn tài trợ chính thức cho phát triển (ODA) đạt tới 3,74 tỷ USD và kiều hối từ nước ngoài gửi về lên tới gần 4 tỷ USD. Thị trường chứng khoán Việt Nam có sự khởi sắc với sự góp mặt ngày càng đông của các nhà đầu tư nước ngoài. Lần đầu tiên, 750 triệu USD trái phiếu Chính phủ Việt Nam phát hành ra thị trường quốc tế đã được mua hết trong một thời gian rất ngắn.

Vì vậy, Dự thảo đã ghi nhận "nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện".

Trên lĩnh vực xã hội:

Năm năm qua, xã hội ta đã tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động, các thành phần kinh tế ngoài kinh tế nhà nước thu hút gần 91% lực lượng lao động xã hội và tạo 90% số việc làm mới. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%, thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt tới 80%. Thu nhập bình quân đầu người ở nước ta tăng từ 5,7 triệu đồng năm 2000 lên trên 10 triệu đồng năm 2005, tương đương khoảng 640 USD. Chỉ số phát triển con người (HDI) cũng được nâng lên.

Công tác xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, thu nhiều kết quả tốt, được dư luận thế giới đánh giá cao. Ðến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo còn 7% (theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001-2005), so với kế hoạch là 10%. Liên hợp quốc đánh giá Việt Nam đã về đích trước 10 năm so với mục tiêu xóa đói nghèo trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên hợp quốc đề ra. Người nghèo được giúp đỡ về điều kiện sản xuất, học nghề, tạo việc làm, cải thiện kết cấu hạ tầng, nhà ở, tiếp cận các dịch vụ công cộng cơ bản, tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng. Một số dịch bệnh nguy hiểm được khống chế và đẩy lùi. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam từ 68 tuổi năm 1999 đã nâng lên 71,3 tuổi năm 2005. Việc chăm sóc người có công với nước, với cách mạng và trợ giúp người có đời sống khó khăn, được mở rộng, với sự tham gia của đông đảo nhân dân. Công tác phòng, chống các tệ nạn xã hội được đẩy mạnh hơn.

Dự thảo đã ghi nhận: "Chúng ta đã kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trên cả nước cũng như ở từng lĩnh vực, địa phương...; thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế".

Trên lĩnh vực đối ngoại:

Năm năm qua, hoạt động đối ngoại của ta được mở rộng đáng kể. Ðến cuối năm 2005, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 169 nước, ở tất cả các khu vực, các châu lục, đặc biệt là với các đối tác quan trọng như các nước láng giềng, khu vực, các nước lớn và các nước bạn bè truyền thống. Lãnh đạo cấp cao của ta đã đi thăm chính thức những nước nói trên và nhiều nguyên thủ, quan chức cao cấp từ khắp năm châu đến thăm chính thức nước ta, đưa các quan hệ hợp tác song phương lên tầm cao mới.

Hoạt động đối ngoại đã tích cực phục vụ tốt việc phát triển kinh tế của đất nước. Ðây cũng là một thành công lớn. Hàng loạt các hiệp định, thỏa thuận hợp tác, hợp đồng kinh tế, thương mại, đầu tư đã được ký kết giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới và đang được thực hiện có hiệu quả. Trong việc đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), những năm qua chúng ta đã kết thúc nhiều phiên đàm phán đa phương và hoàn thành đàm phán song phương với 22 trong số 28 đối tác có yêu cầu đàm phán. Với việc thông qua và sửa đổi nhiều luật cần thiết, thì nếu vào được WTO, Việt Nam là một trong số ít nước có hệ thống luật phù hợp các yêu cầu của WTO ngay từ khi gia nhập.

Một số vấn đề về biên giới, lãnh thổ và vùng chồng lấn trên biển giữa nước ta và một số quốc gia đã được giải quyết. Việt Nam đã là thành viên tích cực của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN, Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), Hội nghị cấp cao Ðông Á, Phong trào Không liên kết, Cộng đồng Các nước có sử dụng tiếng Pháp... và đang có kế hoạch để ứng cử làm Thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.

Hoạt động đối ngoại của Quốc hội và đối ngoại nhân dân của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp hết sức phong phú và

đa dạng, cùng với hoạt động ngoại giao của Chính phủ đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

Từ thực tế trên và từ kết quả hoạt động của các lĩnh vực khác như văn hóa, giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đại đoàn kết toàn dân tộc, quốc phòng, an ninh, Dự thảo đã ghi nhận: "Toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta ra sức phấn đấu thực hiện Nghị quyết Ðại hội IX và đã đạt những thành tựu rất quan trọng".

Những thành tựu nói trên làm cho nhân dân ta thêm phấn khởi, tin tưởng ở tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Sở dĩ có được những thành tựu đó, theo Dự thảo, là do có "đường lối đúng của Ðảng; sự quản lý thống nhất theo pháp luật của Nhà nước, sự điều hành năng động của Chính phủ và sự cố gắng của toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, của các ngành, các cấp, các cơ sở sản xuất kinh doanh. Ðó còn là do tác động tích cực của những cơ chế, chính sách đã được ban hành, do kết quả đầu tư trong nhiều năm qua...".

Những khuyết điểm và yếu kém cần được khắc phục

Tuy nhiên, Dự thảo đã phân tích sâu sắc những khuyết điểm và yếu kém trong việc thực hiện Nghị quyết Ðại hội IX năm năm qua, nổi lên là một số vấn đề sau đây:

Chất lượng phát triển còn thấp. Nhịp độ tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng sẵn có và tiềm tàng của đất nước, chủ yếu là phát triển theo chiều rộng, vào những ngành và những sản phẩm truyền thống, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều nguyên liệu, năng lượng, vốn và sức lao động. Chi phí kinh doanh cao, năng suất lao động, chất lượng sản phẩm thấp so với nhiều nước trong khu vực, do đó sức cạnh tranh kém.

Tài nguyên, đất đai và các nguồn vốn trong Nhà nước bị sử dụng lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Các nguồn lực của các thành phần kinh tế, trong nhân dân, kể cả trong kiều bào định cư ở nước ngoài, còn rất nhiều nhưng chưa được phát huy đúng mức. Cơ cấu kinh tế đã cố gắng chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng còn chậm, nhất là mức tăng trưởng của ngành dịch vụ, một ngành có nhiều tiềm năng phát triển mạnh, lại không đạt kế hoạch năm năm và tỷ trọng ngành dịch vụ trong GDP quá thấp, thậm chí giảm sút so với 10 năm trước. Việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước, nhất là việc cổ phần hóa, chưa đạt yêu cầu đề ra. Chất lượng nguồn nhân lực cũng thấp, phần lớn lao động chưa qua đào tạo; lao động nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ cao. Một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm; tư tưởng ỷ lại ở sự bảo hộ của Nhà nước và tư duy bao cấp chưa được khắc phục triệt để.

Nhiều vấn đề xã hội bức xúc giải quyết còn chậm. Thành tựu xóa đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc, vẫn còn là một vấn đề lớn cần được Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta luôn luôn quan tâm. Chênh lệch về thu nhập, mức sống giữa các tầng lớp nhân dân, giữa các vùng có xu hướng tăng. Những nhu cầu cấp thiết của nhân dân về việc làm, ở cả thành thị và nông thôn, về giáo dục, y tế, văn hóa, nghệ thuật, thông tin, thể dục thể thao, giải trí, đi lại, điện, nước sạch... chưa được đáp ứng tốt. Tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí gây nhức nhối trong dư luận xã hội. Các tội phạm có tổ chức, các tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông chưa được ngăn chặn có hiệu quả làm cho nhân dân lo lắng.

Việc đổi mới và chỉnh đốn Ðảng chưa đạt yêu cầu đề ra. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, thiếu trung thực, tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí, sách nhiễu trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức vẫn rất nghiêm trọng. Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu sức chiến đấu và không đủ năng lực lãnh đạo. Công tác tư tưởng thiếu tính thuyết phục và tính kịp thời. Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công cuộc đổi mới. Việc kiện toàn bộ máy của hệ thống chính trị và tổ chức cán bộ trên một số mặt còn yếu kém. Chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao.

Sở dĩ có những khuyết điểm, yếu kém nói trên là do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, song, như Dự thảo đã khái quát, "chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan". Ðấy là do: tư duy của Ðảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới, một số vấn đề ở tầm quan điểm, tư tưởng lớn chưa đạt được sự nhất trí cao về nhận thức và thiếu dứt khoát trong chỉ đạo điều hành; việc chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt; một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém về phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu, vừa không đủ trình độ, năng lực hoàn thành nhiệm vụ.

Từ những kinh nghiệm năm năm qua

Nhân dân ta vui mừng trước những thành quả quý giá của mình trong năm năm qua. Ðặc biệt, năm 2005 đã đánh dấu sự cố gắng vượt bậc của toàn Ðảng, toàn dân ta, đạt tới đỉnh điểm phát triển một cách đầy ấn tượng, kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế châu Á năm 1997 đến nay.

Ngoại trừ các phần tử thù địch và một số rất ít người thiếu thiện chí, tuyệt đại đa số nhân dân ta và bạn bè quốc tế đều thừa nhận những thành tựu rất quan trọng và đáng tự hào của dân tộc Việt Nam năm năm qua. Ông Jordan Ryan, Trưởng đại diện Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam năm năm qua, đã nói trước khi rời Việt Nam: "Sẽ nhớ lắm mảnh đất này, nơi đã là Tổ quốc của tôi suốt từ năm 2001 đến nay. Rời Việt Nam, trong tôi không chỉ có các ký ức tốt đẹp mà tôi còn được truyền một tinh thần lạc quan, một tình yêu cuộc sống của người dân Việt Nam. Việt Nam, các bạn đã dạy cho tôi biết bao bài học quý giá về phát triển. Hôm nay, cuộc sống ở Việt Nam đã có vô vàn đổi thay. Thế giới vẫn nên làm nhiều hơn để có được hai, ba hoặc nhiều Việt Nam hơn nữa". Nghị sĩ Mexico M.K.Sô-lít mới đây viết trên báo Vũ trụ ở Mexico: "Kinh nghiệm của Việt Nam cổ vũ lòng người. Ðất nước này đang mở ra tương lai. Việt Nam đang nhìn thẳng vào sự nghèo khó của chính mình và đưa ra những quyết định giúp Việt Nam giành được lợi ích trong dòng chảy thương mại và đầu tư quốc tế. Trong một thế giới mà tuyệt đại đa số các nước đều không có cơ hội để thoát khỏi tình trạng kém phát triển, thật hết sức vui mừng vì có một quốc gia dũng cảm và đáng được kính trọng như Việt Nam, đang nỗ lực tạo dựng cho mình một không gian riêng để đứng vào hàng ngũ các nước phát triển trung bình".

Nhưng chúng ta cũng đã nhìn thấy được những nhược điểm và thiếu sót cần phải khắc phục. Việc thực hiện Nghị quyết Ðại hội IX của Ðảng năm năm qua cho chúng ta nhiều kinh nghiệm tốt để đi tiếp chặng đường đổi mới và phát triển, nhưng đáng chú ý nhất và thấm thía nhất là một số vấn đề sau đây:

Một là, phải phát triển nhanh và bền vững trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ðể sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và không bị tụt hậu xa về kinh tế so với các nước trong khu vực, nền kinh tế nước ta phải có tốc độ tăng trưởng nhanh. Năm 2005 cho chúng ta kinh nghiệm và niềm tin có thể phát triển nhanh trong những năm tới, đạt mức tăng trưởng GDP bình quân 7,5-8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm. Phát triển nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn, phải nâng cao chất lượng phát triển. Xét đến cùng và về lâu dài, chất lượng phát triển quyết định tốc độ tăng trưởng. Tăng trưởng nhanh là tăng nhanh số lượng, đi liền với nâng cao nhanh chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của từng sản phẩm kinh tế, ngành kinh tế và của toàn bộ nền kinh tế. Tăng trưởng nhanh về kinh tế phải gắn liền với phát triển toàn diện con người, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, khuyến khích làm giàu hợp pháp, tích cực xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Tăng trưởng nhanh về kinh tế còn phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, không gây ô nhiễm và hủy hoại môi trường.

Hai là, phải phát huy sức mạnh toàn dân tộc, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực.

Nội lực có vai trò quyết định, ngoại lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển. Có phát huy tốt nội lực mới thu hút được nhiều ngoại lực, mới hội nhập kinh tế quốc tế thành công. Phát huy nội lực là phát huy nguồn lực con người, nguồn lực của toàn dân tộc, khai thác, sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực của Nhà nước. Ðiều có ý nghĩa quyết định đối với phát triển là phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người dân, của các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế tư nhân - một nguồn lực giàu tiềm năng, có vai trò quan trọng và là một trong những động lực của nền kinh tế nước ta.

Ba là, phải chăm lo giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Ðây là một trong những vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đầu tư nhiều hơn cho lĩnh vực xã hội, chăm lo phúc lợi xã hội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội bức xúc như: tạo nhiều việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển giáo dục, y tế, văn hóa, chăm sóc những người có công với nước, với cách mạng, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông, phòng chống các tệ nạn xã hội...

Giải quyết tốt các vấn đề xã hội theo phương châm phát huy vai trò, chức năng và trách nhiệm của Nhà nước đồng thời phát huy tiềm năng trí tuệ và các nguồn lực vật chất trong nhân dân và toàn xã hội.

Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố quyết định mọi thành công của công cuộc đổi mới và phát triển ở nước ta. Trong tình hình hiện nay, trước yêu cầu mới của cách mạng, phải vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong hoạt động của Ðảng, làm cho Ðảng có phương thức lãnh đạo khoa học, gắn bó mật thiết với nhân dân, đủ sức đoàn kết và lãnh đạo toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tiếp tục đổi mới và chỉnh đốn Ðảng, xây dựng Ðảng thật sự trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, có trí tuệ và bản lĩnh cao là đòi hỏi có ý nghĩa sống còn đối với Ðảng và nhân dân ta. Với tinh thần đó, chủ đề Ðại hội X của Ðảng và tiêu đề Dự thảo Báo cáo chính trị đã đưa lên hàng đầu nhiệm vụ "nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng".

Năm năm qua là một chặng đường gian khổ nhưng thành công đối với nhân dân ta. Những năm tới, như Dự thảo Báo cáo chính trị đã chỉ rõ, "là cơ hội lớn để đất nước ta tiến lên, tuy khó khăn còn nhiều. Ðòi hỏi bức bách của toàn dân tộc ta lúc này là phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn".

HỒNG HÀ
Tổng Thư ký Hội đồng
Lý luận Trung ương