"Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới" tự nó đã có sự giới hạn cần thiết: không phải tổng kết toàn bộ mà là tổng kết một số vấn đề... Dẫu sao để đánh giá và rút ra kết luận đúng đắn về một số vấn đề ấy, không thể không có cái nhìn tổng quát và toàn bộ.
Tổng kết bắt đầu từ những vấn đề cụ thể đi đến khái quát lý luận, từ việc xem xét từng lĩnh vực đổi mới như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... đi đến nhận định chung về toàn cục của đổi mới, cả những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, những bài học lớn rút ra được. Tổng kết sao cho không sa vào tình trạng thấy cây mà không thấy rừng, hoặc ngược lại, thấy tổng thể rừng mà không thấy được cái phong phú bên trong, tức là hệ sinh thái động, thực vật và cả những tài nguyên dưới lớp đất rừng.
Ðánh giá tổng quát 20 năm đổi mới, Báo cáo tổng kết khẳng định: Công cuộc đổi mới trong 20 năm qua đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Vậy đó là những thành tựu gì?
Một là, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; kinh tế tăng trưởng khá nhanh, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng.
Khủng hoảng kinh tế - xã hội ở nước ta trong những năm cuối thập kỷ 1970 đầu thập kỷ 1980 biểu hiện khá nặng nề: kinh tế trì trệ, phân phối lưu thông ách tắc, cơ chế kế hoạch hóa vận hành trục trặc, ngân sách nhà nước thâm hụt lớn, lạm phát cao (phi mã), đời sống của nhân dân rất khó khăn và lòng tin giảm sút.
Tình trạng khủng hoảng đó, phải đến gần mười năm sau đổi mới, năm 1995, mới được coi là chấm dứt, khi kế hoạch 5 năm 1991 - 1995, kế hoạch 5 năm đầu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 1991 - 2000, được thực hiện vượt mức trên nhiều chỉ tiêu chủ yếu. Từ năm 1996, đất nước bước vào một thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Năm năm 1996 - 2000, kinh tế tiếp tục đạt được nhịp độ tăng trưởng cao. Nếu tính cả mười năm 1991 - 2000 thì nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân là 7,5%; so với năm 1990, GDP năm 2000 tăng hơn hai lần. Năm năm 2001 - 2005 của nhiệm kỳ Ðại hội IX, tăng trưởng GDP bình quân cũng xấp xỉ 7,5%. Tuy chất lượng của sự tăng trưởng còn có mặt hạn chế, song như một số nhà phân tích trên thế giới nhận xét, một đất nước mà trong 15 năm liền đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân GDP trên 7% đó là một điều thần kỳ. Người ta nói đến một con rồng hay con hổ mới.
Bức tranh kinh tế của ta trong 20 năm qua không ngừng biến đổi qua từng năm. Những thành tựu của đổi mới không chỉ đẩy lùi về quá khứ hình ảnh của những năm tháng khủng hoảng kinh tế - xã hội mà còn tạo nên dáng vẻ một đất nước đang tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên thực tế là hai dòng chảy cùng tác động vào nhau để chúng ta vừa phát triển lực lượng sản xuất, vừa xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp.
Khác với mấy chục năm trước, nước ta ngày nay không còn là nước phải nhập khẩu khoảng nửa triệu tấn lương thực mỗi năm mà trở thành một trong những nước xuất khẩu lương thực hàng đầu thế giới, với khoảng trên dưới bốn triệu tấn/năm. Từ một nước vốn có nền công nghiệp yếu kém, đất nước ta từng bước tiến lên xây dựng một nền công nghiệp theo hướng hiện đại, với hàng trăm khu công nghiệp và khu chế xuất được bố trí ở nhiều địa phương. Sản phẩm của công nghiệp cũng đa dạng từ than, thép, xi-măng, đến công nghiệp chế tác và cơ khí chế tạo, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ðiện khí hóa được đẩy mạnh, năm 1995, đạt sản lượng gần 15 tỷ kW giờ điện, năm 2005 con số đó là 53,4 tỷ... Ðến năm 2005, dầu khí đã khai thác tới tấn thứ 100 triệu. Cũng cần nói đến những công trình ghi đậm dấu ấn của thời kỳ mới, như: đường Hồ Chí Minh, cầu Mỹ Thuận, hầm Hải Vân, v.v... Các ngành dịch vụ từng bước phát triển cả về quy mô, tính hiệu quả và sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế; riêng kim ngạch xuất khẩu trong những năm gần đây đã bằng hơn một nửa GDP toàn quốc.
Hai là, bộ mặt văn hóa, xã hội có sự thay đổi đáng kể.
Không phải trước đây, chúng ta không coi trọng các vấn đề văn hóa, xã hội, con người. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân luôn luôn là mục tiêu hàng đầu của chủ nghĩa xã hội. Chúng ta đã từng có những chương trình và kế hoạch nhằm giải quyết các yêu cầu về ăn, ở, đi lại, học hành và chữa bệnh của nhân dân.
Nhưng cái khó bó cái khôn. Do những khó khăn về kinh tế, cũng do cơ chế quản lý không phù hợp mà trong các lĩnh vực văn hóa và xã hội thường xuyên nảy sinh những vấn đề bức xúc.
Hai mươi năm qua, cùng với tăng trưởng kinh tế ngày một khá, chúng ta đã có thể lần lượt giải quyết nhiều vấn đề xã hội tồn đọng từ lâu và cả những vấn đề mới phát sinh. Công tác giải quyết việc làm có nhiều tiến bộ, mỗi năm tạo việc làm từ 1,2 triệu đến 1,5 triệu người lao động. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả đầy ấn tượng; ngay từ năm 2002, nước ta đã được Liên hợp quốc đánh giá là hoàn thành sớm so với kế hoạch toàn cầu: giảm 1/2 tỷ lệ nghèo vào năm 2015. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có thành tích đáng ghi nhận trong việc giảm tỷ lệ tử vong và suy dinh dưỡng ở trẻ em, khống chế dịch bệnh, tăng tuổi thọ trung bình của người dân (từ 63 tuổi năm 1990 lên 71,3 tuổi năm 2005), cải thiện đáng kể chỉ số phát triển con người (HDI). Các hoạt động "đền ơn đáp nghĩa", "uống nước nhớ nguồn", chăm sóc thương binh và gia đình liệt sĩ, khen thưởng người có công, v.v... đã trở thành những nét đẹp trong đời sống văn hóa của dân tộc.
Việc xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc đã gặt hái được nhiều thành quả: bước đầu phát huy được tính chủ động, sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân, kế thừa và phát triển những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng; từng bước hình thành một số nét mới trong chuẩn mực văn hóa của con người Việt Nam; khuyến khích các tài năng văn hóa - nghệ thuật; giữ gìn và tôn tạo nhiều di sản văn hóa; mở rộng giao lưu và hợp tác văn hóa với nước ngoài.
Với vị trí quốc sách hàng đầu, nền giáo dục của nước ta đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Năm 2000, cả nước đã đạt tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến nay, đã có tới 1/2 số tỉnh, thành phố đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn từ 15 tuổi trở lên biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm 1980 lên 95% năm 2004.
Khoa học công nghệ và tiềm lực khoa học công nghệ của đất nước có bước phát triển; nhiều thành tựu đã được đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội rõ rệt. Ðội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ (bao gồm khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Ðảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; làm chủ và ứng dụng có hiệu quả công nghệ nhập từ nước ngoài.
Tuy còn không ít mặt yếu kém, nhưng những gì mà chúng ta đã tạo dựng được trên mặt trận văn hóa, giáo dục, khoa học và công nghệ đã làm cho thế giới ngày càng hiểu thêm rằng dân tộc Việt Nam là một dân tộc văn hóa và văn hiến, một dân tộc hiếu học, ham hiểu biết và có khả năng vươn tới trình độ tri thức ngày càng cao.
Ba là, hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc do Ðảng lãnh đạo được củng cố và tăng cường.
Cơ chế "Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" không chỉ được xác lập về mặt nhận thức mà còn vận hành ngày càng thông suốt hơn trong thực tiễn qua việc củng cố và tăng cường hệ thống chính trị. Ðảng khẳng định rằng, thực chất của công cuộc đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị là xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Trên thực tế, đã thực hiện nhiều chủ trương và biện pháp đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa xã hội, cả dân chủ gián tiếp thông qua các cơ quan dân cử và dân chủ trực tiếp ở cơ sở. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân từng bước được củng cố và tăng cường thông qua việc đổi mới và nâng cao hiệu quả các hoạt động lập pháp và giám sát của Quốc hội, cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ngày càng phát huy được vai trò của mình trong việc tập hợp, đoàn kết, động viên các tầng lớp nhân dân tham gia các phong trào cách mạng, tham gia xây dựng Ðảng, xây dựng Nhà nước và nâng cao tính tự quản của các cộng đồng dân cư. Ðảng thực hiện quyền lãnh đạo của mình thông qua việc tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Ðảng vững mạnh về mọi mặt chính trị tư tưởng, tổ chức cán bộ và phương thức lãnh đạo, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Ðảng và nhân dân.
Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Ðảng là đặc trưng cơ bản của nền chính trị nước ta. Việc củng cố và tăng cường hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cùng những thành quả trên lĩnh vực dân chủ hóa xã hội đã tạo động lực và thực sự là một động lực mạnh mẽ cho quá trình đổi mới toàn diện đất nước.
Bốn là, quốc phòng và an ninh được giữ vững.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới được hiểu không chỉ là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, mà còn là bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với nhận thức đó, mấy chục năm qua, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt coi trọng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Ðã xây dựng và từng bước phát triển tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang, xây dựng quân đội và công an theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Ðã xây dựng được thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, kết hợp quốc phòng - an ninh với kinh tế và các hoạt động đối ngoại. Nhờ đó mà giữ vững nền quốc phòng và an ninh quốc gia, góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn định chính trị và ổn định xã hội, tăng thêm niềm tin của nhân dân vào khả năng tự bảo vệ của sự nghiệp cách mạng và đổi mới ở nước ta.
Năm là, mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.
Cùng với việc phá bỏ bao vây và cấm vận, chúng ta đã ra sức mở rộng quan hệ đối ngoại. Với chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập, hợp tác và phát triển, chúng ta không ngừng mở rộng và tăng cường mối quan hệ với các nước láng giềng và trong khu vực, các nước bạn bè truyền thống, các nước lớn và các quốc gia phát triển, tham gia nhiều diễn đàn và tổ chức quốc gia và quốc tế khác, nhất là các tổ chức thuộc Liên hợp quốc. Ðến nay, nước ta đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước trong số hơn 200 nước trên thế giới, đặc biệt là lần đầu tiên trong lịch sử, có quan hệ với tất cả các nước lớn, kể cả Mỹ.
Chúng ta đã tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu, hợp tác trên các lĩnh vực khác, tranh thủ nguồn vốn, khoa học - công nghệ tiên tiến, kỹ thuật quản lý của nước ngoài để phát triển đất nước.
Tiếng nói và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao.
Rõ ràng là, những thành tựu nêu trên, về mặt thực tiễn, đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của đất nước ta. Còn về mặt lý luận, chúng ta không thể không đồng tình với kết luận của Báo cáo tổng kết: "Những thành tựu to lớn đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Ðảng ta là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Ðiều rất quan trọng là, sau 20 năm lãnh đạo và chỉ đạo công cuộc đổi mới, Ðảng và Nhà nước ta ngày càng tích lũy thêm nhiều kinh nghiệm. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn".
Báo cáo còn khẳng định: "Cho đến nay, Ðảng ta đã bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Ðảng, góp phần bổ sung và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội". Nói gọn lại, đó là các quan điểm chung về mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội, về nền tảng tư tưởng của Ðảng, về động lực của sự phát triển. Ðó còn là các quan điểm cụ thể về công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; về tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; về xây dựng chủ nghĩa xã hội đi đôi với bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; về quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế.
Sẽ không khách quan và toàn diện nếu nói những thành tựu của đổi mới nêu trên là toàn thiện, toàn mỹ. Không. Trên thực tế, kinh tế phát triển còn chưa tương xứng với khả năng và yêu cầu, sức cạnh tranh còn yếu và vẫn tồn tại nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nhiều vấn đề văn hóa và xã hội bức xúc chậm được giải quyết. Nạn quan liêu, tham nhũng, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống của không ít cán bộ, đảng viên vẫn nghiêm trọng. Tệ nạn xã hội phát triển. Ðời sống nhân dân, nhất là ở miền núi, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Hoạt động của hệ thống chính trị, phương thức lãnh đạo của Ðảng chậm được đổi mới; hiệu lực quản lý của Nhà nước chưa cao. Mối quan hệ giữa Ðảng và nhân dân có mặt giảm sút. Dân chủ trong Ðảng và trong xã hội chưa được phát huy đầy đủ. Về mặt lý luận, không ít vấn đề về nhận thức còn chưa đủ rõ, nhất là trong việc nhận thức và giải quyết quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển; giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững; giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị; giữa đổi mới và ổn định; giữa độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế...
Dẫu sao nếu so sánh giữa những thành tựu đạt được và những mặt yếu kém, khuyết điểm, giữa mảng sáng và mảng tối, mặt phải và mặt trái trong bức tranh đổi mới thì có thể thấy rõ thành tựu, mảng sáng và mặt phải là cơ bản. Tính chất to lớn của những thành tựu đổi mới là không có gì để bàn cãi. Còn ý nghĩa lịch sử là ở chỗ nào? Không chỉ ở chỗ nó góp phần ngăn chặn sự đổ vỡ như ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Ðông Âu. Cũng không chỉ ở sự ngăn ngừa chệch hướng hoặc chệch mục tiêu của chủ nghĩa xã hội như đã từng xảy ra ở nơi này hay nơi khác trong quá trình đổi mới; ở sự phản bác lại những mưu toan và thủ đoạn ngăn cản và phá hoại đổi mới. Ý nghĩa lịch sử quan trọng nhất là ở chỗ, trong những điều kiện vô cùng phức tạp trong tình hình thế giới và trong nước suốt mấy mươi năm qua, chúng ta không chỉ kế thừa những gì gặt hái được trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội trước đó mà còn thông qua thực tiễn đổi mới mà tìm tòi và khám phá ra con đường đúng đắn nhất để từ một xã hội của sản xuất nhỏ và kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam con đường phù hợp với tiến trình lịch sử của loài người trong thời đại mới.
|