Làm thế nào để có thể giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chiến lược, giới khoa học xã hội nói chung và các nhà kinh tế nói riêng ở hầu hết các nước trên thế giới. Nhờ sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ và cùng với sự quyết tâm, điều chỉnh, đổi mới các yếu tố thể chế vận hành, cơ chế tác động, nền kinh tế thế giới nói chung trong thế kỷ 20 đã đạt được tốc độ tăng trưởng to lớn, tạo ra một khối lượng sản phẩm khổng lồ cho nhân loại.
Với sự tác động tích cực của quá trình toàn cầu hóa, của làn sóng cải cách theo xu hướng mở rộng tối đa không gian tự do cho kinh tế thị trường và nhất là kinh tế tri thức mà đi liền với nó là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học với hàng loạt công nghệ mới đã và sẽ xuất hiện, thì khả năng tăng trưởng mạnh của kinh tế thế giới thế kỷ 21 chắc chắn vẫn là xu thế nổi trội. Thế nhưng, hiện nay cả loài người đang đứng trước một vấn đề hết sức nan giải, đó là mâu thuẫn giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng nhanh với hố ngăn cách và sự phân hóa giàu nghèo có xu hướng ngày càng lớn giữa các khu vực, các dân tộc và giữa các tầng lớp xã hội trong mỗi nước. Liệu loài người có thể có giải pháp chung để tiến tới toàn cầu hóa sự công bằng và tiến bộ chung hay không?
Phải khẳng định rằng, không có tăng trưởng kinh tế thì không thể có tiến bộ xã hội và công bằng xã hội, nhưng phải chăng, nghèo đói và bất bình đẳng là hệ quả tất yếu của tăng trưởng kinh tế?
Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia đã và đang cố gắng tìm cho mình con đường riêng để giải quyết mâu thuẫn trên. Các giải pháp đưa ra ở các nước trong thế kỷ 20 rất đa dạng, song tựu trung lại thì hoặc là ưu tiên tăng trưởng kinh tế trước, giải quyết công bằng xã hội sau; hoặc là đặt các mục tiêu xã hội lên trước các mục tiêu kinh tế. Kinh nghiệm cho thấy cả hai cách làm đó đều có những hạn chế mà hệ quả của nó đều gây ra sự chống đối và sự khủng hoảng trong đời sống xã hội.
Với tư cách là một Ðảng, lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng, và trong sự hiện diện của mình luôn là đại biểu trung thành cho lợi ích của nhân dân lao động, Ðảng Cộng sản Việt Nam cho rằng: giữa việc tăng trưởng kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau, làm điều kiện và tiền đề cho nhau cùng phát triển. Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, tiền đề để thực hiện công bằng xã hội. Ngược lại, thực hiện công bằng xã hội là nhân tố, điều kiện quan trọng thúc đẩy và bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Thực tiễn qua 20 năm đổi mới đất nước đã và đang minh chứng rõ điều này.
Những kết quả đã đạt được
Về nhận thức, chủ trương và quan điểm với những nỗ lực vượt qua bao khó khăn chồng chất ở giai đoạn khủng hoảng kinh tế - xã hội, thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đã giành được những thành tựu mà cả thế giới đều công khai ghi nhận: từ tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng vào những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20, nền kinh tế đã duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân cao so với khu vực châu Á liên tục từ đầu thập kỷ 90 cho đến nay; thu nhập bình quân đầu người, mức sống và trình độ dân trí đều được nâng cao so với giai đoạn trước đổi mới; chỉ số phát triển con người (HDI) đã có những bước cải thiện đáng kể; chương trình xóa đói, giảm nghèo được chú trọng và đã đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ; từ chỗ thiếu đói triền miên, Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới...
Trước đổi mới, do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là do những sai lầm chủ quan, duy ý chí trong nhiều chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước về cải tạo XHCN và xây dựng CNXH theo mô hình cũ, đất nước ta đã lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Trong điều kiện đó, nhiều mục tiêu về phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội đã không thể thực hiện được như mong muốn.
Từ Ðại hội VI (12-1986) đến nay, quá trình đổi mới tư duy lý luận của Ðảng về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng, thể hiện thông qua hệ thống các chủ trương và quan điểm cơ bản. Theo đó, đã hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa (Ðại hội IX khái quát là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa), có tác động khơi dậy và nhân lên tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cả các tầng lớp dân cư, tạo nên luồng sinh khí mới làm xoay chuyển tình hình mọi mặt đất nước. Ðồng thời, từng bước khẳng định ngày càng rõ hơn việc thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Mặt khác, đã thiết lập cơ chế, chính sách để người lao động tự tạo ra việc làm cho mình và cho người khác, xem mọi hoạt động tạo ra thu nhập mà không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm; khẳng định chủ trương khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói, giảm nghèo, coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển. Chúng ta khẳng định giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu nhằm phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Xem phát triển giáo dục, khoa học, y tế là sự nghiệp của toàn Ðảng, của Nhà nước và của toàn dân. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo. Ðề xuất quan điểm tổng quát văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; Có quan niệm mới các tầng lớp xã hội mà Cương lĩnh 1991 đã nêu lên quan niệm về việc hình thành một cộng đồng xã hội văn minh, trong đó các giai cấp, các tầng lớp dân cư đều có nghĩa vụ, quyền lợi chính đáng, đoàn kết chặt chẽ góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh. Ðặc biệt coi trọng xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, những nhà kinh doanh có tài, những nhà quản lý giỏi và các nhà khoa học, kỹ thuật có trình độ cao; khẳng định mạnh mẽ chiến lược kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người với tư cách từng cá nhân và cả cộng đồng đều có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình.
Từ hệ thống những chủ trương, quan điểm trên và từ thực tiễn của quá trình thực hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đôi và gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội trong 20 năm qua đã cho chúng ta bài học tổng quan trong vấn đề này là: Phải có sự thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế; tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Về kết quả thực tế, kết quả phát triển kinh tế trong những năm qua là cơ sở thuận lợi để Nhà nước ta có thể huy động các nguồn lực tăng cường đầu tư cho phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng. Với những nền tảng đó, hệ thống chính sách phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, văn hóa... đã có nhiều điều kiện thuận lợi để triển khai, củng cố và hoàn thiện trong thực tế.
Theo tinh thần các chủ trương và quan điểm trên của Ðảng, Chính phủ đã lần lượt thể chế hóa thành hệ thống pháp luật, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án cụ thể để đưa vào cuộc sống. Nhờ vậy, thực tiễn đổi mới ở nước ta thời gian qua đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ về phát triển văn hóa, xã hội trong sự gắn bó với phát triển kinh tế.
- Nhìn chung, sau gần 20 năm đổi mới, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ở nước ta đã được giải quyết một cách khá hiệu quả. Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng cao trong nhiều năm liền. Các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư. Ðời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt.
- Từ năm 1991 đến nay, trung bình hằng năm cả nước đã giải quyết cho khoảng một đến 1,2 triệu người lao động có việc làm. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả đầy ấn tượng. Theo chuẩn quốc gia, tỷ lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống 11% năm 2003. Còn theo chuẩn quốc tế, thì tỷ lệ nghèo chung đã giảm từ 58% năm 1993, xuống 28,9% năm 2002. Như vậy, Việt Nam đã hoàn thành sớm hơn so với kế hoạch toàn cầu: giảm một nửa tỷ lệ nghèo vào năm 2015 mà Liên hợp quốc đã đề ra.
- Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học. Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến cuối năm 2003, 19 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đã tăng từ 88% cuối những năm 1980 lên 94% hiện nay.
- Tiềm lực khoa học và công nghệ của nước nhà có bước phát triển nhất định. Ðội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chính sách đổi mới của Ðảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài, nhất là trong các lĩnh vực thông tin - truyền thông, lai tạo một số giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao, thăm dò và khai thác dầu khí, phát triển thủy điện, xây dựng cầu, đóng tàu biển, sản xuất vắc-xin phòng dịch...
- Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ, góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh phổ biến trước đây, khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS). Tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 69 tuổi hiện nay.
- Chỉ số phát triển con người (HDI) từ mức dưới trung bình: 0,498 năm 1991 tăng lên mức trung bình: 0,688 năm 2002.
Nếu so với thứ bậc xếp hạng GDP bình quân đầu người thì thứ bậc xếp hạng HDI của Việt Nam năm 2002 vượt lên 19 bậc. Ðiều đó chứng tỏ sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ sự phát triển con người, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội tốt hơn so với một số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao hơn nước ta.
- Về văn hóa, việc triển khai thực hiện 10 nhiệm vụ do Nghị quyết Hội nghị T.Ư 5 khóa VIII đề ra đã góp phần củng cố sự thống nhất trong Ðảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với đường lối đổi mới toàn diện của đất nước. Tính chủ động, sáng tạo của nhân dân được phát huy. Các tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều di sản văn hóa, cả vật thể và phi vật thể, được giữ gìn tôn tạo. Những giá trị và sắc thái văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu rất đáng tự hào, quá trình đổi mới kinh tế - xã hội của nước ta thời gian qua còn nhiều mặt yếu kém cần được tiếp tục giải quyết trong thời gian tới.
Trên lĩnh vực phát triển kinh tế, nền kinh tế thị trường nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa tuy đã hình thành, song chậm được thể chế hóa đồng bộ.
Trên lĩnh vực phát triển xã hội, nhiều chính sách đã ban hành chưa được thực hiện tốt, một số chính sách còn thiếu hoặc có những điểm bất cập so với sự biến chuyển của tình hình thực tế. Ðời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số miền núi còn nhiều khó khăn.
Mức chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn cũng tăng từ 1,95 lần năm 1992 lên 2,01 lần năm 1995 và 2,27 lần năm 2002, đến 2004 là khoảng bốn lần. Nếu so sánh về mức sống của dân cư ở miền xuôi và dân cư miền núi, nhất là ở các xã vùng cao, thì độ dãn cách còn lớn hơn nữa.
Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm từ 8 đến 9% vào đầu những năm 1990 xuống còn khoảng 6% năm 2004, nhưng vẫn còn ở mức khá cao, vượt khỏi giới hạn an toàn của tỷ lệ thất nghiệp trong một quốc gia (thường là 2 đến 3%).
Hiện tượng làm giàu phi pháp do tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo, đầu cơ chưa được ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả.
Ngoài ra, trong các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân (nhất là khám, chữa bệnh cho người nghèo), điều tra và xét xử các vụ án, v.v. cũng còn nhiều việc phải chấn chỉnh, cải cách, cải tiến, để thật sự bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển con người, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Vấn đề đặt ra và giải pháp
để tiếp tục thực hiện
Qua thực tiễn 20 năm đổi mới đã đặt ra một số vấn đề buộc chúng ta phải tính đến và cụ thể hóa hơn, giải quyết triệt để hơn, nếu như muốn bảo đảm việc tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội đem lại kết quả khả quan và bền vững.
Một là, sự kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội phải được thực hiện ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Muốn vậy, mỗi chính sách phát triển kinh tế phải đồng thời hướng tới thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; mỗi chính sách phát triển văn hóa, phát triển xã hội phải "mở" và tạo điều kiện thúc đẩy cao nhất cho phát triển kinh tế, dù trực tiếp hay gián tiếp, trước mắt hoặc lâu dài.
Hai là, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho mọi công dân, - kể cả những người yếu thế và dễ bị tổn thương đều có cơ hội tiếp cận công bằng các nguồn lực phát triển và các dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe, việc làm, thông tin; tư vấn pháp luật... để họ có thể tự lo liệu và dần dần cải thiện cuộc sống của bản thân, gia đình, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chung.
Ba là, thách thức đặt ra cho Việt Nam hiện nay rất phức tạp và nan giải: Tỷ lệ nghèo đói so với chuẩn thế giới còn lớn; những mặt trái của cơ chế thị trường đang làm nảy sinh những vấn đề xã hội bức xúc: đó là sự phân hóa giàu nghèo; sự cách biệt về tốc độ phát triển giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng miền; sự gia tăng các tệ nạn ma túy, mại dâm, tội phạm hình sự, sự suy thoái về lối sống và đạo đức; tham nhũng đã thật sự trở thành quốc nạn; chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp so với các nước trong cùng khu vực và rất thấp so với các nước phát triển.
Những vấn đề này nếu không được giải quyết thỏa đáng và kiên quyết, thì khó có thể đạt được phát triển bền vững, càng không thể có công bằng xã hội thật sự, và chắc chắn sẽ gây những cản trở không nhỏ trong quá trình tiếp tục đổi mới để đạt tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Ðể giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ công bằng xã hội, cần phải tập trung vào những định hướng chính sách sau:
Một là, đẩy mạnh việc thể chế hóa đồng bộ nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cải tiến các chính sách quản lý vĩ mô, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp trong xã hội đều có cơ hội tiếp cận một cách công bằng đối với các yếu tố "đầu vào" của sản xuất, kinh doanh.
Hai là, đối với thành quả của quá trình sản xuất, kinh doanh, cần tiếp tục thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào quá trình trên.
Ba là, ngoài việc phân phối lần đầu cho những người trực tiếp tham gia quá trình sản xuất, kinh doanh như trên đã nói, Nhà nước cần phải thi hành chính sách phân phối lại thông qua các sắc thuế (như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu nhập...) để điều tiết thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, tăng thêm nguồn thu nhập cho ngân sách và phân bổ một cách công bằng, hợp lý các khoản chi từ ngân sách này cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội.
Riêng trong lĩnh vực đầu tư cho phát triển các vùng lãnh thổ, một mặt cần tập trung đầu tư ở mức hợp lý cho các vùng kinh tế động lực, nhằm tạo ra những đầu tàu tăng trưởng để kéo toàn bộ đoàn tàu kinh tế Việt Nam đi lên nhanh hơn. Song, mặt khác, cũng cần chú trọng đầu tư cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, nhằm giảm dần khoảng cách, trình độ phát triển giữa các vùng miền, từng bước khắc phục tình trạng "bất công tự nhiên" và "bất công do lịch sử để lại"; giữ vững ổn định chính trị - xã hội bảo đảm cho sự phát triển bền vững của đất nước. Bên cạnh đó, cũng có thể áp dụng cơ chế riêng đối với những vùng có lợi thế về kinh tế để hỗ trợ những vùng yếu thế hơn.
Bốn là, tiếp tục khuyến khích không hạn chế mọi người làm giàu hợp pháp, trước hết là những công nhân lành nghề, những nông dân sản xuất giỏi, những nhà khoa học, kỹ thuật có trình độ cao, những nhà kinh doanh có tài.
Năm là, đi đôi với việc khuyến khích làm giàu hợp pháp, cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc xóa đói, giảm nghèo, tập trung phần lớn ở những vùng nghèo, xã nghèo, nhất là xã đặc biệt khó khăn.
Sáu là, cần mở rộng chính sách phúc lợi xã hội thành hệ thống chính sách an sinh xã hội nhiều tầng nấc, xem đây là một trong những chỉ báo quan trọng của một xã hội công bằng và văn minh.
Hệ thống chính sách an sinh xã hội này bao gồm: 1) Chính sách ưu đãi xã hội, nhằm bảo đảm mức sống ít nhất trên trung bình cho những người có công trong quá trình cách mạng và kháng chiến trước đây; 2) Chính sách bảo hiểm xã hội nhằm huy động sự tích góp một phần thu nhập của những người lao động lúc bình thường để dành chi tiêu cho lúc gặp khó khăn (thất nghiệp, bệnh tật tuổi già...); 3) Chính sách trợ cấp xã hội để hỗ trợ giúp những người yếu thế và dễ bị tổn thương như người tàn tật, người già cô đơn, trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ...; 4) Chính sách cứu tế xã hội để cưu mang những người bị thiệt hại nặng do địch họa, thiên tai hoặc rủi ro trong cuộc sống; 5) Chính sách tương trợ xã hội, như phát huy truyền thống tương thân, tương ái "lá lành đùm lá rách" trong cộng đồng để giúp nhau vượt qua khó khăn, xóa đói, giảm nghèo, cải thiện đời sống.
Bảy là, hoàn thiện hệ thống pháp luật, loại bỏ những kẽ hở trong cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện để ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những hiện tượng làm giàu phi pháp.
ĐỖ NGUYÊN PHƯƠNG Ủy viên T.Ư Ðảng Trưởng ban Khoa giáo Trung ương
|