Xử lý hình sự hành vi mua bán trái phép hoá đơn giá trị gia tăng
Các Website khác - 17/10/2005
Xử lý hình sự hành vi mua bán trái phép hoá đơn giá trị gia tăng

Bà Hoàng Thị Thanh (Hải Phòng) hỏi: Tại cơ quan tôi đang công tác, có người lợi dụng vị trí làm việc, mua hoá đơn giá trị gia tăng (HĐGTGT) để hợp thức hoá các khoản tiền chiếm đoạt của cơ quan. Vậy người đó có phạm tội hình sự không? Căn cứ xử lý hình sự đối với người mua, bán HĐGTGT?

Trả lời:
Căn cứ Thông tư liên tịch số 21/2004/TTLT/BCA-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 23.11.2004, hướng dẫn việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi mua, bán, sử dụng trái phép HĐGTGT:

1. Người nào mua hoá đơn giá trị gia tăng và sử dụng trái phép hoá đơn đó để lập chứng từ khống về việc mua nguyên, nhiên vật liệu, vật tư, hàng hoá... chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức hoặc người khác thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:

a. Nếu là người có chức vụ, tức là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền của cơ quan, tổ chức mà mình có trách nhiệm quản lý, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội tham ô tài sản" theo Điều 278 của Bộ luật Hình sự, nếu:

- Tiền bị chiếm đoạt từ năm trăm nghìn đồng trở lên;

- Tiền bị chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về một trong các tội quy định các tội phạm về tham nhũng của Bộ luật Hình sự, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

b. Nếu là người khác (không thuộc các trường hợp tại điểm a nêu trên) thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản" theo Điều 139 của Bộ luật Hình sự, nếu:

- Tiền chiếm đoạt từ 500.000 đồng trở lên;

- Tiền chiếm đoạt dưới năm trăm nghìn đồng, nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

2. Người nào có hành vi bán HĐGTGT cho người khác, mà biết rõ mục đích sử dụng hoá đơn của người mua, nếu người mua bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội nào thì người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội đó, với vai trò đồng phạm.

3. Người nào có hành vi bán HĐGTGT cho người khác, mà không biết mục đích sử dụng hoá đơn của người mua hoặc khi bán có biết mục đích sử dụng hoá đơn của người mua, nhưng không xác định được người mua, thì việc truy cứu trách nhiệm hình sự như sau:

a. Trường hợp chứng minh được khi bán HĐGTGT, mà HĐGTGT đã được ghi đầy đủ như đã mua bán hàng hoá thì người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội tàng trữ, vận chuyển, lưu hành giấy tờ có giá giả" theo Điều 181 của Bộ luật Hình sự;

b. Trường hợp không chứng minh được HĐGTGT đã được ghi đầy đủ như đã mua hàng hoá (HĐGTGT còn nguyên như khi phát hành) thì người bán bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội mua bán tài liệu của cơ quan nhà nước" theo Điều 268 của Bộ luật Hình sự, nếu số lượng HĐGTGT từ năm mươi số trở lên (thông thường mỗi số có 3 liên) hoặc dưới năm mươi số, nhưng đã bị xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án về tội chiếm đoạt, mua bán, tiêu huỷ con dấu, tài liệu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, nhưng chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.

L.S Phạm Đình Thắng