Phòng ngừa bệnh cúm gia cầm
Các Website khác - 24/12/2004
Theo Bộ Y tế, để phòng ngừa bệnh cúm gia cầm trong mùa dịch, người dân có thể tiêm vaccin, đồng thời thực hiện các biện pháp đơn giản như giữ vệ sinh cá nhân, hạn chế tiếp xúc với nguồn bệnh, tăng cường sức khoẻ bằng ăn uống và tập thể thao. Khi có các biểu hiện sốt cao, đau đầu, đau cơ, đau họng, ho... cần đến ngay cơ sở y tế để khám và điều trị.
Phòng ngừa

Trung tâm Phòng chống bệnh Mỹ (CDC) khuyến cáo: nên tiêm vaccin hằng năm trước khi mùa cúm bắt đầu. Vaccin nên được tiêm 2-6 tuần trước khi mùa cúm bắt đầu, điều này cho phép cơ thể có đủ thời gian hình thành miễn dịch. Người lớn chỉ cần 1 liều vaccin hằng năm, nhưng với những trẻ dưới 9 tuổi mà chưa được miễn dịch trước đó thì nên tiêm 2 liều, mỗi liều cách nhau 1 tháng.

Vaccin mỗi mùa cúm gồm ba chủng virus có khả năng dễ gặp nhất trong mùa cúm tới. Khi có sự so sánh tốt giữa chủng cúm đoán trước và chủng cúm được dùng trong vaccin, vaccin có hiệu quả từ 70-90% đối với người dưới 65 tuổi. Vì đáp ứng miễn dịch giảm bớt phần nào theo độ tuổi, những người trên 65 tuổi không thể nhận được mức bảo vệ như vậy từ vaccin, nhưng thậm chí nếu họ tiếp xúc virus cúm, thì vaccin cũng giúp làm giảm bớt mức độ nặng và phòng các biến chứng. Chủng virus được sử dụng làm vaccin là dạng bất hoạt và không gây bệnh cúm.

Tác dụng phụ nghiêm trọng với vaccin hiện nay rất hiếm. Một vài người bị đau nhẹ tại nơi tiêm, chỗ tiêm sẽ hết đau trong 1-2 ngày. Ở những người chưa tiếp xúc với virus cúm, đặc biệt ở trẻ em, có thể bị sốt nhẹ 1-2 ngày, mệt mỏi và đau cơ. Những triệu chứng này bắt đầu trong vòng 6-12 giờ sau khi tiêm vaccin.

Cần lưu ý, một số đối tượng không nên tiêm vaccin cúm.

Trẻ em dưới 6 tháng tuổi có hệ miễn dịch chưa hoàn chỉnh và không có lợi khi tiêm vaccin. Từ khi vaccin là chế phẩm từ trứng gà, người mà bị dị ứng nặng với trứng hoặc các thành phần khác của vaccin thì không nên tiêm vaccin cúm. Biện pháp thay thế là họ có thể dùng một liệu trình amantadin hoặc rimantadin cũng được dùng như một biện pháp bảo vệ chống lại virus cúm. Những người khác có thể dùng thuốc mà thuốc này đã có khả chữa được sau khi mùa cúm bắt đầu hoặc người bị tổn thương hệ miễn dịch, như những bệnh nhân HIV giai đoạn cuối. Amantadin và rimantadin có hiệu quả 70-90% trong việc phòng cúm.

Một vài nhóm người khỏe mạnh cũng được khuyên dùng vaccin vì họ có nguy cơ bị các biến chứng do cúm:

- Tất cả những người từ 65 tuổi trở lên.

- Những người điều trị nội trú tại bệnh viện và dễ mắc bệnh mạn tính, cho mọi lứa tuổi.

- Người lớn và trẻ em bị bệnh tim phổi mạn tính, như hen phế quản.

- Người lớn và trẻ em bị bệnh chuyển hóa mạn tính, như bệnh tiểu đường và rối loạn chức năng thận, cũng như thiếu máu nặng hoặc bệnh về máu bẩm sinh.

- Trẻ em và vị thành niên điều trị liệu pháp aspirin dài ngày.

- Phụ nữ có thai tháng thứ 2 hoặc 3 trong mùa cúm hoặc những phụ nữ đang phải chăm sóc bệnh nhân.

- Người bị suy giảm miễn dịch, bao gồm người nhiễm HIV, bệnh nhân ung thư, những người nhận ghép tạng, và những bệnh nhân đang dùng steroid, hóa trị liệu, hoặc xạ trị.

- Bất cứ người nào tiếp xúc với các nhóm trên, như giáo viên, nhân viên chăm sóc, nhân viên y tế và các thành viên trong gia đình.

- Khách đi du lịch nước ngoài.

Tuy nhiên, nhiều người không nằm trong các nhóm nguy cơ trên cũng nên tiêm vaccin.

Điều trị cúm

Điều trị cúm phải theo một lịch trình. Các triệu chứng cúm có thể giảm khi nằm nghỉ ngơi và giữ nước tốt. Xông có thể làm dễ thở hơn và các thuốc giảm đau sẽ làm giảm đau. Tuy chán ăn nhưng cần phải cố gắng ăn nhiều chất dinh dưỡng. Quá trình phục hồi sức khỏe không nên thực hiện quá gấp. Người bệnh trở lại các hoạt động bình thường quá nhanh có thể gây tái phát bệnh hoặc các biến chứng.

Khi có những triệu chứng kể trên, người bệnh cần nghĩ mình đã có thể bị mắc bệnh viêm phổi do virus và đến ngay cơ sở y tế để được khám, chẩn đoán, và cấp cứu kịp thời. Bệnh viêm phổi do virus là căn bệnh nguy hiểm, hiện nay chúng ta chưa có vaccin phòng bệnh.

Dưới đây là bốn biện pháp phòng tránh bệnh viêm phổi:

* Biện pháp 1: Vệ sinh cá nhân, vệ sinh ăn uống.

Vệ sinh cá nhân như rửa mặt, mũi, chân tay cần thực hiện ít nhất 2-3 lần/ngày. Sử dụng các loại thuốc sát khuẩn đường hô hấp trên để nhỏ mũi và súc họng 2-3 lần/ngày. Vệ sinh ăn uống bằng cách không sử dụng các loại thịt gia súc từ gia cầm đã mắc bệnh hoặc nghi mắc bệnh.

* Biện pháp 2: Hạn chế tiếp xúc với nguồn bệnh.

Khi tiếp xúc với nguồn bệnh phải được trang bị bảo hộ, các trang bị bảo hộ gồm: mặt nạ, áo choàng, găng tay, mũ... Các trang bị bảo hộ đều phải được sản xuất theo tiêu chuẩn kỹ thuật đảm bảo ngăn ngừa sự xâm nhập của virus vào cơ thể con người, tuy nhiên khi không có các trang bị bảo hộ thì vẫn có thể thay thế bằng các trang bị đơn giản khác.

Đến nay, vẫn chưa tìm ra bằng chứng cho thấy bệnh viêm phổi do virus có thể lây truyền từ người này sang người khác, nhưng trang bị bảo hộ đối với các nhân viên y tế khi vào vùng có dịch cúm gia cầm và những người dân sống trong vùng dịch vẫn hết sức cần thiết.

Theo quy định của Bộ Y tế, trong một số trường hợp nhất định, một số trang bị bảo hộ sẽ được nhân viên y tế cấp phát và hướng dẫn sử dụng đến từng người dân. Bên cạnh đó những người dân sống trong vùng dịch cũng cần có các biện pháp tự phòng bệnh, tự trang bị khẩu trang, tăng cường vệ sinh cá nhân và sử dụng các loại thuốc sát khuẩn đường hô hấp trên.

Việc bảo đảm vệ sinh môi trường cũng phải được tiến hành thường xuyên, bên cạnh biện pháp tẩy uế chuồng trại nuôi gia cầm mắc dịch, cần phun thuốc Cloramin B ở môi trường chung quanh khu vực nhà ở, nếu cần thiết có thể phun thuốc trong từng gia đình. Sau khi ra khỏi khu vực đang xảy ra dịch, các nhân viên y tế mới được cởi bỏ trang bị và quần áo bảo hộ. Các trang bị và quần áo được thay ra phải cho ngay vào túi nilông, buộc kín lại, sau đó ngâm vào dung dịch tẩy trùng và đưa về cơ sở y tế để tiêu huỷ bằng cách đốt hoặc chôn.

Các gia đình nằm trong vùng có dịch cúm gia cầm hoặc có người thân bị mắc viêm phổi do virus cũng cần phải có biện pháp vệ sinh nhà cửa, các đồ dùng của người mắc bệnh cũng cần phải được ngâm vào dung dịch tẩy trùng 20 phút sau đó giặt sạch và phơi khô mới đưa vào sử dụng. Tại các cơ sở y tế, phải bố trí phòng khám cách ly đối với những người có biểu hiện của bệnh viêm phổi do virus. Nhân viên y tế khi tiếp xúc với người nghi mắc bệnh cũng cần phải được trang bị bảo hộ như khi vào vùng dịch. Sau khi khám bệnh phải rửa tay bằng dung dịch tẩy trùng. Tại khoa điều trị phải bố trí các buồng bệnh cách ly, khi vào khu vực điều trị này nhân viên y tế cũng phải được trang bị, mặc quần áo bảo hộ. Tại mỗi khu vực điều trị cũng cần bố trí một phòng được quy định dành riêng cho việc thay quần áo bảo hộ sạch. Trước các buồng bệnh phải đặt các tấm chùi chân, nhân viên y tế phải chùi chân trước khi vào buồng bệnh và sau khi ra khỏi buồng bệnh. Người bệnh khi được khám bệnh cũng phải đeo khẩu trang để tránh lây nhiễm sang nhân viên y tế, các nhân viên y tế cũng phải tuân thủ các quy định chuyên môn về việc bảo đảm vô khuẩn và sử dụng các trang bị, quần áo bảo hộ theo nguyên tắc chống lây nhiễm chéo trong khu vực điều trị. Tại trước cửa mỗi buồng điều trị cần đặt một lọ cồn sát trùng để nhân viên y tế rửa tay ngay sau khi khám và tiếp xúc với người bệnh. Khi đã xong công việc và cần ra khỏi khu vực điều trị cách ly, nhân viên y tế mới được cởi bỏ trang bị và quần áo bảo hộ. Việc cởi bỏ trang bị và quần áo bảo hộ phải được thực hiện tại một phòng đã được dành riêng cho việc này. Quần áo và trang bị bảo hộ cũng được đựng vào các túi nilông, sau đó buộc kín lại, ngâm dung dịch tẩy trùng trước khi mang đi tiêu huỷ.

Về nguyên tắc, tại các khu vực điều trị cách ly không cho phép những người không có trách nhiệm có mặt tại đây. Tuy nhiên, ở một số phòng bệnh chưa phải thuộc diện cách ly tuyệt đối, người bệnh đang được theo dõi chưa được chẩn đoán xác định thì những người tiếp xúc với người bệnh cũng phải được trang bị bảo hộ và tuân thủ các nguyên tắc bảo hộ như với nhân viên y tế.

* Biện pháp 3: Tăng cường sức khoẻ bằng cách ăn uống và luyện tập thể dục thể thao.

* Biện pháp 4: Khi có các biểu hiện của bệnh như: Sốt cao, đau đầu, đau cơ, đau họng, ho... cần đến ngay cơ sở y tế để khám và điều trị.

Hiện đã có các thuốc chống cúm có thể được dùng cả để phòng ngừa người nhiễm cúm gia cầm và để điều trị những người đã nhiễm cúm gia cầm. Virus dường như kháng với hai thuốc chống cúm cũ là amantadin và rimantadin. Tuy nhiên, các thuốc chống cúm mới hơn Tamiflu và Relenza hy vọng sẽ có tác dụng và được cung cấp đủ nếu có dịch xảy ra.

Tamiflu là loại thuốc chống virus có hiệu quả cao trong điều trị cúm A và được Bộ Y tế đưa vào phác đồ điều trị. Tamiflu với tên hoạt chất là Oseltamivir của Hãng dược phẩm Roche (Thuỵ Sĩ) là loại thuốc chống virus có tác dụng ức chế virus cúm thông qua việc ức chế men neuraminidase (N). Men N có tác dụng hết sức cơ bản trong việc hạn chế sự phát tán virus này trong cơ thể. Khi người mắc cúm dùng loại thuốc này sẽ làm cho virus cúm không nhân lên và kìm hãm sự phát triển của virus.

Ở Việt Nam hiện nay, trong phác đồ điều trị bệnh cúm A của Bộ Y tế cho phép các cơ sở điều trị bệnh nhân cúm A đưa thuốc Tamiflu vào điều trị cho bệnh nhân và có hiệu quả rõ rệt. Theo phác đồ này, trẻ em từ 1-13 tuổi dùng dung dịch uống tuỳ theo trọng lượng cơ thể: < 15kg: 30mg x 2 lần/ngày x 5 ngày; từ 16-23kg: 45mg x 2lần/ngày x 5 ngày; từ 24-40kg: 60mg x 2 lần/ngày x 5 ngày. Người lớn và trẻ trên 13 tuổi: 75mg x 2lần/ngày x 5 ngày.

Ngoài ra, còn có hai loại thuốc kháng virus là Amantadine và Ribavirin được Bộ Y tế đưa vào phác đồ điều trị bệnh cúm A. Việc sử dụng các loại thuốc này phải theo dõi chức năng gan, thận để điều chỉnh liều lượng cho phù hợp. Theo Bộ Y tế, chỉ có các cơ sở điều trị bệnh nhân mắc cúm A và nghi nhiễm cúm A mới có chỉ định dùng thuốc Tamiflu. Người bệnh không nên tự điều trị bằng thuốc này tại nhà mà chỉ được sử dụng dưới sự theo dõi của thầy thuốc.

Có một số phương pháp điều trị thay thế có thể giúp chống lại virus cúm và phục hồi do bệnh cúm, để làm giảm nhẹ các triệu chứng cúm.

- Châm cứu và giác hút. Cả hai phương pháp nói trên dùng để kích thích đề kháng tự nhiên, làm giảm sung huyết mũi và đau đầu, sốt cao và giảm ho, tuỳ thuộc vào các huyệt đạo châm cứu và giác hút được sử dụng.

-Xoa bóp dầu thơm. Các thầy thuốc giới thiệu nên súc miệng và họng hàng ngày với một giọt tinh dầu của cây chè (Melaleuca spp) và chanh pha trong một cốc nước ấm. Nếu đã bị cúm, hai giọt tinh dầu chè hoà trong bồn tắm nước nóng có thể giúp bạn làm giảm triệu chứng. Các tinh dầu thiết yếu của cây khuynh diệp (Eucalyptus globulus) hoặc bạc hà (Mentha piperita) được dùng trong xông hơi có thể giúp dễ thở và nghẹt mũi.

- Thảo dược. Thảo dược có thể được dùng để kích thích hệ miễn dịch, để chống virus. Tỏi (Allium sativum) có khả năng chống virus khi có các triệu chứng của bệnh cúm. Ví dụ, truyền boneset (Eupatroium perfoliatum) có thể làm giảm đau đầu và sốt, và cỏ thi (Achillea millefolium) hoặc hoa cây cơm cháy (elderflower) có thể chống lại ớn lạnh.

Phép chữa vi lượng đồng căn. Ðể phòng bệnh cúm, một phương pháp chữa bệnh vi lượng đồng căn được gọi là Oscillococcinum có thể được áp dụng khi có dấu hiệu đầu tiên của triệu chứng cúm và nhắc lại trong một đến hai ngày. Các phương pháp chữa vi lượng đồng căn khác được giới thiệu khác nhau tuỳ theo các triệu chứng cúm đặc trưng xuất hiện. Gelsemium được giới thiệu để chống lại sự mệt mỏi kèm theo ớn lạnh, đau đầu và sự sung huyết mũi. Bryonia (Bryonia alba) có thể được sử dụng để điều trị đau cơ, đau đầu, và ho khan. Với tình trạng khó ngủ, ớn lạnh, khản tiếng, và đau khớp, chất độc cây thường xuân (Rhus toxicodendron) được khuyến khích sử dụng. Cuối cùng, tình trạng đau nhức và ho khan hoặc ớn lạnh được gợi ý dùng Eupatorium perfoliatum.

- Thuỷ liệu pháp: Tắm sẽ làm cho sốt do cúm sẽ hồi phục nhanh bởi việc tạo ra một môi trường trong cơ thể mà virus cúm không thể sống được. Bệnh nhân nên tắm bằng nước nóng ở mức có thể chịu được và duy trì trong phòng tắm từ 20-30 phút. Trong khi tắm, bệnh nhân uống một cốc nước cỏ thi hoặc chè làm từ hoa cây cơm cháy để làm toát mồ hôi.

- Vitamin. Với người lớn, 2-3g vitamin C mỗi ngày có thể giúp phòng bệnh cúm. Tăng liều 5-7g mỗi ngày trong trường hợp cúm kèm thêm bội nhiễm. (Liều nên giảm nếu bệnh nhân bị ỉa chảy).

Theo Theo Bộ Y tế