Vị thuốc từ đậu nành
Các Website khác - 13/01/2005
Đậu nành có tác dụng trừ nhiệt và giải độc tốt. Hạt có thể dùng chữa chứng tích kiết lị nóng dạ dày, mụn sưng độc, viêm phù thận..., đồng thời làm thực phẩm cho người bị bệnh đái tháo đường, huyết áp cao. Xin giới thiệu một số bài thuốc thông dụng.
Ðậu nành còn gọi là đậu tương, đại đậu, đậu vàng. Là hạt của cây đậu tương thuộc họ đậu. Tính bình vị ngọt. Thành phần chính có: anbumin 36,6%, chất béo 18,4%, các-bua-hy-đrát 25%, can-xi, sắt, vitamin B1, B2, a-xít ni-cô-ti-níc, caroten.100g có thể cho 412 kcal. Có chứa tám loại a-xit a-min mà cơ thể con người cần. Giá trị dinh dưỡng đứng đầu các thức ăn về đậu.

Tác dụng: kiện tì, khoan trung, nhuận táo tiêu thủy, trừ nhiệt, hoạt huyết giải độc. Chủ yếu dùng chữa chứng tích kiết lị nóng dạ dày, mụn sưng độc không rõ nguyên nhân, bị thương chảy máu bên ngoài, viêm phù thận. Có thể làm thực phẩm thường dùng cho người bị bệnh đái tháo đường, huyết áp cao, tim bị bọc mỡ.

Cách dùng: cho thêm gia vị hầm kỹ ăn, rang ăn, hoặc chế biến thành sản phẩm đậu, giá đậu mà dùng. Về dược liệu thì xay bột với nước mà uống. Có thể sao vàng nghiền bột đắp vào chỗ đau.

Kiêng kị: ăn nhiều dễ bị ho, đờm, dùng quá nhiều thì mệt mỏi, ngủ mê. Nếu uống tetracilin, tyrothricin thì không nên ăn đậu.

Chữa trị: 1- Phòng chữa cảm: đậu tương một nắm, rau thơm khô 3g, hành trắng ba cây, gừng khô hai nhát, củ cải trắng bốn miếng. Ðun với nước sau khi chín, làm canh ăn. Mỗi ngày hai đến ba lần.

2- Ðinh nhọt, phù: lấy một ít đậu tương vừa đủ, ngâm vào nước cho mềm, cho thêm ít phèn chua, xay thành bột nước, đắp vào chỗ đau. Mỗi ngày hai lần. Cũng có thể dùng lượng đậu tương vừa đủ, sao khô, nghiền bột, hòa với rượu hoặc dấm đắp vào chỗ đau.

3- Phòng chữa táo bón, đái tháo đường, huyết áp cao, giảm béo, bảo vệ sức khỏe: Ðậu tương rang chín, cho vào bình, cho dấm vào vừa ngập hạt đậu, bịt kín, ngâm xuống nước bảy ngày đêm thì có thể dùng. Mỗi ngày vào sáng sớm ăn thìa canh.

4- Viêm thận, phù: đậu tương 500g, ngâm vào nước 10 - 12 giờ đồng hồ, xay nhuyễn, đun chín, bỏ bã, lấy một lít nước đậu, chọn một con cá diếc (khoảng 1.000g) cho vào đun nhừ. Chia hai lần, ăn cho hết trong một ngày, ăn liên tục.

5- Phù thũng: lượng đậu tương vừa phải nấu với rượu pha nước. Ngày uống hai lần.

6- Nhọt độc mới sưng: Lượng đậu tương vừa phải, ngâm nước, nghiền nát, đắp vào chỗ đau, ngày thay một đến hai lần.

7- Mụn nhỏ ướt, có nước vàng: rang đậu tương cho chín, nghiền thành bột, cho dầu vừng cao, trộn đều, bôi vào chỗ đau, ngày hai đến ba lần.

8- Thiếu máu: đậu tương, gan lợn mỗi loại 100g. Trước hết cho gia vị vào đậu tương rồi nấu gần chín (80%) xong cho gan lợn đã thái miếng thêm muối vào nấu chín. Chia hai lần ăn hết trong ngày.

9- Chân bị loét: lượng đậu tương vừa phải, nấu rồi xát đãi vỏ đi, xong nghiền giã nát, đắp vào chỗ đau, ngày thay một lần.

10- Mụn lở thông thường: ngâm đậu trắng đến mọc mầm rồi nấu chín và ăn nhạt ngày hai lần, ăn no thì thôi, ba ngày là một liệu trình, trong thời gian chữa trị không ăn thức ăn khác và dầu mỡ.

11- Ngộ độc muối ma-giê: a/ Ðậu tương sống 500g, đậu vỡ, đổ vào ba bát nước, khuấy đều, gạn lấy nước uống. b/ Ðậu tương sống, đậu xanh mỗi loại 250g, nghiền nhỏ thành bột, đổ vào một bát nước khuấy đều, lấy nước uống.

12- Sau khi sinh không đủ sữa: 100g đậu tương, một ít gạo nấu thành cháo ăn.

Theo sách "Thức ăn vị thuốc" -
Viện Nghiên cứu và phổ biến kiến thức bách khoa