Nghiên cứu về AIDS còn giúp phòng trừ nhiều bệnh nan y khác
Các Website khác - 20/07/2005


Một điều thú vị mà các nhà khoa học gần đây đã tổng kết, thống kê và thừa nhận rằng, nghiên cứu về AIDS đã đem lại hy vọng không chỉ cho những bệnh nhân mắc căn bệnh thế kỷ mà còn cho cả những người chẳng may nhiễm các căn bệnh nan y khác nữa.

Trong những năm gần đây, những phát minh đáng lưu ý của ngành y đã cung cấp những hiểu biết về nguyên nhân cũng như cách chữa trị cho rất nhiều bệnh tật khác nhau. Chính những giải pháp đầy tiềm năng của những phát hiện khoa học đó  đã hứa hẹn những phương thức chữa trị cho một loạt các bệnh nan y như bệnh tim, ung thư, Alzheimer và hàng loạt các bệnh khác nữa.

Có một điều hết sức may mắn ở thời đại chúng ta đang sống chính là việc Viện y tế quốc gia (National Institutes of Health - NIH) đã dành những khoản quỹ nghiên cứu về AIDS cho công tác tìm tòi vắc xin mới, cách thức phòng chống và điều trị. Một điều mà không phải ai cũng biết là, chính những nghiên cứu này đã giúp ích không nhỏ trong quá trình tìm kiếm các giải pháp trị liệu cho nhiều căn bệnh khác chứ không chỉ riêng HIV/AIDS.

Trong một bài báo của bác sĩ y khoa Jeffrey Laurence do amfAR (American Foundation for AIDS Research - Quỹ nghiên cứu AIDS của Mỹ) xuất bản trong tháng 7 này có viết: "Chính nhờ những nghiên cứu về AIDS đã có thể điều chế được một loại thuốc mới cho bệnh viêm gan B, căn bệnh khiến nhiều người chết nhất vì ung thư gan trên toàn cầu; cho viêm gan C, nguyên nhân làm gia tăng và xuất hiện nhanh hơn của bệnh gan kinh niên và cả những thuốc cho bệnh ung thư gan nữa. Không dừng ở đó, quá trình nghiên cứu này sẽ còn hứa hẹn đưa lại nhiều giải pháp hơn nữa trong công tác điều trị bệnh của thế giới".

Cũng trong bài báo đó, bác sĩ Laurence còn trích dẫn bài "Ung thư và AIDS" của ông A.J.S. Rayle (đăng trên tạp chí Nhà khoa học"). Bài viết này đã lưu ý một điểm: "Việc nghiên cứu HIV/AIDS đã mở đường cho những nghiên cứu khác về cả mặt kinh nghiệm, chính trị và triết học. Bởi lẽ, để nghiên cứu được về AIDS, người ta cần phải có một cái nhìn hết sức sâu sắc và hiểu biết thấu đáo về hệ miễn dịch, về nghiên cứu chống virus, do vậy, từ những nghiên cứu AIDS đó, đã có rất nhiều vắc xin mới được điều chế và cả những cách thức điều trị trên gen được chuyển sang cho bên nghiên cứu ung thư cũng như nhiều loại bệnh khác.

Cùng với viêm gan, nghiên cứu về AIDS còn hiến kế cho công tác điều trị ung thư vú, các bệnh tự động miễn dịch, bệnh Alzheimer và bệnh tim.

Cũng theo bác sĩ Laurence, có một cách thức điều trị đã được thử nghiệm và cho kết quả đầy triển vọng của việc điều trị ung thư vú cấp cao là phương pháp hoá học trị liệu liều cao. Tuy nhiên, đi liền sau phương pháp này là việc cấy ghép tuỷ xương có khả năng sẽ dẫn đến những hậu quả xấu cho cơ thể người bệnh như tàn phá cơ thể, lây nhiễm các bệnh khác hoặc thậm chí tử vong. Tình trạng này rất giống với những hiện tượng như trong quá trình điều trị AIDS, do vậy chính những nghiên cứu về AIDS đã giúp các nhà nghiên cứu đề xuất được những loại thuốc mới chống lại những lây nhiễm trong trường hợp nói trên. Cũng như thế, cách thứ điều trị bệnh Saccôm cũng được thử ứng dụng trong các bệnh như ung thư bàng quang, ung thư ruột kết, v.v..

Những người nhiễm HIV dương tính thường có những biểu hiện tương tự như kiểu bệnh tự động miễn dịch, kiểu như trong những bất thường về máu của bệnh Lupút. Theo bác sĩ Laurence, việc nghiên cứu điều trị AIDS có thể giúp áp dụng trực tiếp trong việc điều trị những triệu chứng này nếu chúng đột ngột xảy ra.

Cũng giống như bệnh Alzheimer, chứng mất trí nặng cũng là một vấn đề của người nhiễm AIDS trong giai đoạn cuối. Theo bác sĩ Laurence, virus HIV gây mất trí ở người bệnh thông qua quá trình làm tổn thương và chết của các tế bào. Do vậy, những thuốc được bào chế thành công nhằm giảm bớt tình trạng này ở bệnh AIDS rất có thể sẽ có tác dụng tương tự đối với bệnh nhân mắc Alzheimer. Những mảng đặc thù được dùng để trám vào những thế bào não bị tổn thương của người bệnh Alzheimer được tạo nên một phần từ loại enzym phân huỷ protein, và vì thế, các nhà khoa học đã và đang nghiên cứu cách thức sử dụng chất ức chế loại enzym này để điều trị chứng suy giảm trí nhớ của người nhiễm AIDS.

Cũng giống với những tổn hại về tế bào như trong bệnh Alzheimer, virus HIV cũng làm tổn thương tới những tế bào trong thành mạch máu nhỏ ở tim người bệnh. Bác sĩ Laurence khẳng định, những hiện tượng tương tự thế này cũng đã xảy ra cả với những người không nhiễm AIDS nhưng mắc chứng xơ vữa động mạch. Chính vì vậy, việc phát hiện những cách thức ngăn chặn quá trình huỷ hoại tế bào rõ ràng không chỉ có tác dụng với những bệnh nhân nhiễm AIDS mà còn với tất cả mọi người.

Dự án nghiên cứu về AIDS hỗ trợ nghiên cứu của tất cả những lĩnh vực khác nhau, tất nhiên không loại trừ HIV/AIDS. Chỉ tiếc là sức chịu đựng của người bệnh là có hạn. Thực tế là có rất nhiều bệnh nhân nhiễm AIDS, nhất là những người ở tuổi nghỉ hữu đã nhiễm phải những bệnh tương tự như những người không nhiễm AIDS mắc phải.

Tất nhiên, thế hệ tương lai hy vọng rất nhiều ở những tiến bộ nghiên cứu y học. Dự án nghiên cứu AIDS đã phối hợp với các tổ chức y tế trên diện rộng nhằm hỗ trợ việc gây quỹ ở cấp nhà nước. Tất nhiên, dự án này không chỉ nhằm gây quỹ cho những nghiên cứu của riêng HIV/AIDS mà còn dành cho những bệnh nan y khác như ung thư, tim, Alzheimer. Từ thực tiễn nghiên cứu, người ta thấy rõ rằng, việc đầu tư cho những nghiên cứu về AIDS đã đem lại những lợi ích gia tăng, giúp người bệnh trên toàn thế giới có thêm hy vọng về những phương thức trị liệu cho những căn bệnh nan y toàn cầu.

Dương Kim Thoa theo http://www.thedesertsun.com