Trí thức trẻ về nước: Thiếu chương trình dài hơi !
Các Website khác - 25/04/2008



Việt Nam đang triển khai kế hoạch đào tạo 10.000 tiến sỹ ở nước ngoài theo học bổng của Chính phủ với những cam kết phải trở về nước phục vụ trong một khoảng thời gian nhất định. Nhưng liệu Việt Nam đã sẵn sàng để tiếp nhận đội ngũ này chưa? Hay các trí thức trẻ mới về lại tiếp tục dần bị “huỷ hoại”?
 

TIN LIÊN QUAN

Bị “huỷ hoại” dần bởi hệ thống

Trí thức Việt Nam trở về nước cần được tạo cơ hội để cống hiến. Ảnh lễ trao giải Vinh danh Nước Việt: Lê Anh Dũng
Trí thức Việt Nam trở về nước cần được tạo cơ hội để cống hiến. Ảnh lễ trao giải Vinh danh Nước Việt: Lê Anh Dũng
James H. Cobbe, 1 học giả Fulbright đang giảng dạy tại ĐH Đà Nẵng đã chứng kiến cảnh những trí thức mới về nước bị “huỷ hoại” dần bởi hệ thống. Những người muốn tiến hành nghiên cứu phải sử dụng chính đồng tiền của mình. Những người muốn giảng dạy thì không chỉ bị làm thui chột bởi chương trình học cứng nhắc do chính phủ quy định mà còn phải nhận “ân huệ” từ lãnh đạo khoa, những người không phải lúc nào cũng mong muốn thấy cấp dưới thành công.

“Ấn tượng của tôi là Bộ GD-ĐT rất quan tâm tới việc cải cách hệ thống trường ĐH. Chỉ có điều họ không biết cụ thể nên làm thế nào.” – Cobbe, giáo sư kinh tế từ ĐH Florida State bày tỏ.

Những điều đó chẳng phải tin gì mới với Phạm Sỹ Tiến, một cựu quan chức cao cấp của Bộ GD-ĐT, người đã từng điều hành chương trình học bổng du học của Chính phủ. Ông gật đầu, tỏ ý thấu hiểu những lời than phiền đang bao trùm nặng nề lên hệ thống giáo dục ĐH.

“Chất lượng giáo dục ĐH thấp và 1 trong các nguyên nhân là chất lượng đội ngũ giảng viên.”, ông Tiến khẳng định.

Cải cách đã được đề ra nhưng đa số đều chết yểu dần dần, chôn vùi trong những trang giấy và đấu đá chính trị. Ông Tiến tin rằng 1 trong những cách tốt nhất để tăng chất lượng giảng dạy, khuyến khích cách nghĩ mới, đẩy nhanh cải cách chính là gửi người đi du học.

Bộ GD-ĐT hiện đang đặt mục tiêu đào tạo 10.000 trí thức lấy bằng tiến sỹ ở nước ngoài tới năm 2020, chi phí được trả bởi nhà nước. Học bổng được dành đặc biệt cho các giảng viên trẻ và được thiết kế để tăng mức học bổng trong các trường ĐH của Việt Nam.

“Đào tạo giảng viên hiện là ưu tiên hàng đầu của quốc gia.” – ông Tiến nói.

Tất nhiên, với cái giá 100.000 USD cho mỗi tiến sỹ, học bổng cũng có những quy định chặt chẽ. Trí thức phải trở về trường của họ và phục vụ trong khoảng thời gian dài gấp 3 lần thời gian du học.

Trong khi thừa nhận rằng sẽ phải đối mặt với những rào cản, nhưng có ngày họ sẽ nhận được phần thưởng tương xứng khi số lượng nhất định những trí thức được đào tạo chất lượng cao cùng trở về Việt Nam.

Đừng mong chờ thay đổi toàn diện 

Tu Anh Vu, hiện đang ở Mỹ theo đuổi bằng tiến sỹ trong lĩnh vực nhân chủng học theo học bổng Chính phủ, là 1 phần của làn sóng chuẩn bị nguồn lực bản xứ quay về Việt Nam. Cô hầu như không thể chờ đợi được. Là chủ tịch Hội SVVN ở ĐH Hawaii, Vu tỏ ra khá lạc quan khi nhận định rằng khả năng của đất nước cô là rất lớn.

Vì lĩnh vực nhân chủng học còn mới mẻ với các trường ĐH ở Việt Nam, Vu tin rằng cô sẽ có thể gây ảnh hưởng tới cách dạy và học môn này. Cô cũng đang dịch sách giáo khoa nhân chủng học của Mỹ sang tiếng Việt và dự định viết sách của riêng mình.

Để bổ sung vào nguồn lương giảng dạy ít ỏi, cô hình dung ra việc thiết kế 1 khoá học nghiên cứu về Việt Nam dành cho SV Mỹ cũng như xây dựng 1 công viên để trưng bày các giá trị văn hoá truyền thống.

Vu nói rằng cô cũng đã được cảnh báo về sự ganh ghét trong công việc, những hạn chế ngổn ngang mà cô phải đối mặt khi trở về. Sinh ra trong 1 gia đình nhà giáo, cô đã được bố mẹ động viên phải thực tế hơn.

“Bố tôi luôn nói rằng: Đừng mong chờ thay đổi toàn diện. Nhưng chúng ta có kiến thức và sức mạnh, chúng ta cần chứng tỏ được bản thân mình. Phải là những người tiên phong. Đừng mong chờ ai đó đặt sẵn vào tay bạn.” – Cô nói.

Việt Nam đã thực sự sẵn sàng đón trí thức quay về?

Việt Nam đã thực sự sẵn sàng đón những trí thức trẻ này quay về? Ảnh: VEF
Tran Van Hai thì lại hoài nghi hơn nhiều. Anh không mong có ưu đãi gì đặc biệt, nhưng nếu quay về Việt Nam, anh chỉ cần kiếm tiền đủ sống.

Hai rời Việt Nam sang Mỹ không lâu sau khi chiến tranh kết thúc. Anh có bằng tiến sỹ khoa học máy tính và được thăng cấp trong Văn phòng Kiểm toán Chính phủ. Anh cũng là giảng viên thỉnh giảng của ĐH George Washington. Như nhiều người Việt khác, anh mong ước được trở về quê hương.

Chính phủ Việt Nam cũng rất muốn anh trở về và thường xuyên công khai kêu gọi các chuyên gia như anh Hai về giảng dạy ở Việt Nam. Nhưng với 1 con trai đang học ĐH và 1 khoản vay thế chấp nhà, anh Hai không thể chấp nhận 1 công việc được trả 100 USD/tháng. Anh Hai tự hỏi: Nếu họ thực sự được mong chờ đến thế, tại sao đa số người Việt Nam ở nước ngoài về chẳng thể mua được bất động sản?

Tuy nhiên, nỗi sợ hãi lớn nhất của họ là những kỹ năng của mình sẽ bị uổng phí.

“Nếu nguồn lực nội địa không được sử dụng hợp lý thì chẳng có lý do gì để chúng tôi quay về.” – anh Hai chia sẻ. “Bạn có nghĩ rằng Việt Nam đã sẵn sàng đón chúng tôi chưa? Tôi không nghĩ thế. Không hề vì chúng ta thiếu các chương trình cụ thể và dài hơi.”

Vu, học giả trẻ đã rời khỏi môi trường học thuật rất sớm sau khi quay về Việt Nam, phản đối việc đặt trách nhiệm nặng nề lên riêng đôi vai Chính phủ. Cô cho rằng chính sách thực sự cần thay đổi nhưng chỉ đổ lỗi cho Chính phủ thì quá đơn giản.

“Tất cả đều bắt nguồn quyết định của mỗi cá nhân.” – Vũ nói – “Và chừng nào mà lá chắn cũng vẫn còn đó thì chẳng có gì thay đổi. Nó vẫn như thế từ năm 2005 và vẫn thế cho tới nay. Nếu bạn nghĩ người ta sẽ về đây dạy học, tôi xin phép có ý kiến khác.”