SỰ BÙNG PHÁT DỊCH HIV VÀ NHỮNG NỖ LỰC NGĂN CHẶN Ở TP. HCM
Các Website khác - 25/03/2004

Thực trạng... buồn

Cùng với tốc độ gia tǎng số người nhiễm HIV ngày một cao trong cả nước, 2 - 3 nǎm gần đây TP. HCM cũng là nơi "phát triển" không ngừng đại dịch thế kỷ này. Tính đến nay - sau hơn 10 nǎm kể từ khi trường hợp nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện (vào tháng 12/1990) - TP. HCM đã có 7.444 trường hợp nhiễm HIV được phát hiện.

Cũng như ba địa phương có số người nhiễm HIV tǎng nhanh và cao nhất trên 100.000 dân hiện nay như Quảng Ninh (305), Hải Phòng (142), Lạng Sơn (115), tình hình nhiễm HIV tại TP. HCM hiện nay ngày càng diễn biến phức tạp hơn, khó kiểm soát hơn. Đối tượng nghiện ma tuý va gái mại dâm vẫn là đối tượng "chủ lực" bị nhiễm, đặc biệt là gái mại dâm có sử dụng ma tuý thuộc thế hệ cũ (thường là thành phần thấp của xã hội) chiếm tỷ lệ chủ yếu nhưng đã giảm dần qua các nǎm (do tử vong, luống tuổi...) nhưng bắt đầu gia tǎng lại trong nǎm 1999 và 2000 trên nhóm nghiện ma tuý trẻ mới. Theo con số thống kê của UBPC AIDS TP. HCM cho thấy: tỷ lệ người nhiễm HIV dưới 30 tuổi là 26,2% (1995); 29,2% (1997) rồi vượt lên 66,2% (1999) và đến nǎm 2000 là 81,9%. Đặc biệt số trẻ em dưới 15 tuổi bị nhiễm HIV từ mẹ được phát hiện từ những bà mẹ trẻ cũng tǎng cao: 0,3% (1998); 1,1% (1999) và tǎng lên tới con số 3,1% (2000)! Vì sao đối tượng nghiện ma tuý trẻ lại bị nhiễm HIV nhiều hơn trước?

Qua số liệu tìm hiểu giám sát chỉ tại một quận của TP. HCM cho thấy có đến 80% con nghiện sử dụng ma tuý qua đường tiêm chích và thời gian chuyển từ hút sang chích ở số người nghiện trẻ ngày càng ngắn (khoảng dưới 1 tháng), tỷ lệ sử dụng bơm kim tiêm chung đến 70%, các đối tượng này thường hùn tiền để tiêm chích chung, khi "phê" thuốc sẽ quan hệ tình dục bừa bãi với gái mại dâm (chiếm tỷ lệ rất cao 73%).

Theo báo cáo từ các đội giáo dục đồng đẳng của thành phố thì trong các nǎm trước việc sử dụng ma tuý rất ít ở gái mại dâm (GMD) nhưng từ 1998 một số GMD bắt đầu sử dụng và gia tǎng nhanh trong nǎm 1999 và 2000, nhất là trên nhóm GMD trẻ tuổi. Theo số liệu từ Trung tâm giáo dục dạy nghề phụ nữ (TTGDDNPN) trong số 1.359 học viên học tại trung tâm, nǎm qua có đến 30% có sử dụng ma tuý và có đến 87% trong đó sử dụng bằng đường tiêm chích. Bên cạnh đó, một số lượng đáng kể các GMD trở về từ Campuchia có tỉ lệ nhiễm HIV rất cao, đây là những "quả bom không tiếng nổ" và có sức "công phá" lây lan khủng khiếp cho xã hội! Kết quả khảo sát trên 890 GMD tại TTGDDNPN cho thấy 52% đối tượng từ các tỉnh đến, 8% đối tượng từng hành nghề ở Campuchia có tỷ lệ nhiễm HIV cao gấp 4 1ần so với số chưa từng qua... đất bạn!

Cũng như các địa phương trong cả nước, ngoài các nhóm đối tượng chủ yếu trên người nhiễm HIV ngày nay tại TP. HCM còn có mặt trên tất cả các đối tượng trong xã hội: trí thức, học sinh, sinh viên, công nhân viên chức... và, tỷ lệ nhiễm HIV cũng đã gia tǎng trên các nhóm đối tượng khác: bệnh nhân STD (bệnh lây lan qua đường tình dục): 5,1% so với 2,2% trong nǎm 1999, bệnh nhân lao (5,3% so với 4,4o/o trong nǎm 1999), tân binh (2,6% so với 0,4% trong nǎm 1999).v.v... Đặc biệt, trong tháng 12/2000, Công an TP. HCM đã thực hiện xét nghiệm HIV cho 167 phạm nhân tại trại giam Chí Hòa có hành vi nguy cơ, kết quả có 84 người nhiễm HIV (chiếm tỷ lệ 50.3%)!

Những nỗ lực ngǎn chặn đại dịch

Công tác phòng chống AIDS của nước ta trong thời gian qua đã có nhiều nỗ lực và đạt được nhưng thành quả nhất định, góp phần làm chậm lại tốc độ phát triển của dịch. Dựa vào các dự báo về tình hình dịch ở Việt Nam của UNAIDS và WHO so với dự báo nǎm 1993 về số lượng người nhiễm HIV vào nǎm 2000: Kết quả dự báo nǎm 1995 đã giảm 220.000 người so với dự báo nǎm 1993 và kết quả dự báo nǎm 1998 đã giảm 410.000 - 435.000 người

Để đạt được các thành quả đó, TP. HCM đã có những đóng góp cùng với cả nước ngǎn chặn làn sóng đại dịch không phải là nhỏ. Các cấp, các ngành từ vǎn hóa thông tin, lao động thương binh xã hội, công đoàn đến y tế, công an, giáo dục đào tạo v.v... theo phân cấp và chức nǎng của mình đều có những hoạt động cụ thể, thiết thực để cùng ngǎn chặn đại dịch HIV/AIDS cho toàn xã hội. Trong đó vai trò của ngành y tế, đặc biệt là UBPC HIV/AIDS TP. HCM là rất lớn. Bằng các chương trình can thiệp giảm thiểu nguy cơ lây nhiễm HIV như chương trình giáo dục đồng đẳng, giáo dục về sử dụng bơm kim tiêm một lần, phát hiện và điều trị bệnh STD miễn phí cho gái mại dâm, tiếp cận tham vấn nâng đỡ người nhiễm HIV, chǎm sóc chữa trị bệnh nhân AIDS tại y tế cơ sở và cộng đồng, giám sát dịch tễ và hành vi người nhiễm HIV, phát triển và tǎng cường các dự án hợp tác quốc tế v.v... đến nay TP. HCM đã đạt được nhiều thành quả nhất định trong việc làm chậm lại tốc độ phát triển của dịch. Mạng lưới phòng chống AIDS đã được xây dựng từ 1990 (gồm 18 thành viên đại diện các ban ngành của TP và các tiểu ban có mặt khắp 22 quận huyện và 303 phường/xã) dưới sự điều phối, chỉ đạo chung của UBPC AIDS TP đã kịp thời xác định các chiến lược, biện pháp hành động kịp thời qua từng thời kỳ diễn tiến của dịch. Từ đó, nhiều mô hình phòng chống AIDS hiệu quả đã ra đời tại TP. HCM như quán cà phê Thanh Niên, Hy Vọng, Bạn giúp bạn, chương trình cung ứng bao cao su, mô hình chǎm sóc, chữa trị bệnh nhân AIDS tại nhà, cộng đồng (được thực hiện bởi cán bộ y tế phường/xã và những người nhiễm HIV được huấn luyện thành các điều dưỡng xã hội, góp phần vào việc chǎm sóc tốt hơn cho bệnh nhân HIV/AIDS. Các mô hình này đã được trung ương, các tổ chức liên quan trong và ngoài nước đánh giá cao và đã được nhân rộng ra ở nhiều tỉnh, thành phố, góp phần cùng cả nước khống chế đại dịch. Nhờ vào những nỗ lực trên TP. HCM đã làm chậm lại tốc độ phát triển của dịch. Có thể kể ra: đã kiểm soát được đợt dịch nǎm 1993 trên đối tượng nghiện chích ma túy cũ (tỷ lệ nhiễm HIV trên nhóm đối tượng này là 25,5% trong nǎm 1993 và tǎng lên 42% trong nǎm 1995, sau đó giảm dần và còn 18% nǎm 1998). Bên cạnh đó kiềm chế được tốc độ phát triển của dịch trên nhóm đối tượng GMD từ 1993 - 1998 (tỷ lê này dao động từ 2 - 3%) qua đó kiềm chế được tốc độ phát triển của dịch trên người bình thường (tỷ lệ nhiễm HIV trên thai phụ là 0,1 - 0,2%, tân binh 0.2%).

Trước sư bùng phát của tệ nạn sử dụng ma túy trong giới trẻ và GMD dùng ma túy đã làm gia tǎng tỉ lệ nhiễm HIV trên 2 đối tượng trên từ 1999 và 2000 nhưng tỷ lệ nhiễm HIV trên các nhóm đối tượng khác được khống chế (nǎm 2000 tỷ lệ nhiễm HIV trên bệnh nhân STD là 5,1%, bệnh nhân lao 5,3% và phụ nữ mang thai là 0,4%), nếu tiếp tục đầu tư đúng mức sẽ có khả nǎng kiềm chế sự phát triển của dịch trong cộng đồng người bình thường thời gian tới.

Tuy nhiên, các nỗ lực phòng chống AIDS vẫn còn nhiều hạn chế từ các nguyên nhân khách quan, chủ quan khác. Chẳng hạn công tác phòng chống tệ nạn ma túy mại dâm chưa có kết quả làm ảnh hưởng đến việc phòng chống AIDS, các mô hình phòng chống AIDS có hiệu quả như trên vừa nêu còn dừng lại là các mô hình thí điểm với độ bao phủ còn nhỏ. TP. HCM đang kiến nghị với Trung ương cho phép nhân rộng các chương trình giáo dục và can thiệp phòng ngừa lây nhiễm cho các đối tượng tệ nạn đã chứng minh có hiệu quả trong những nǎm qua, xin triển khai thí điểm chương trình sử dụng chất thay thế methadone cho những người nghiện, trước hết là người nghiện nhiễm HIV... UBPC AIDS TP. HCM cho biết: tuy dịch đang bùng phát trên 2 đối tượng chính là người nghiện ma túy và GMD và vẫn còn khu trú trong các đối tượng nghiện ma túy là chính. Do đó, nếu TP có những giải pháp hiệu quả để ngǎn chặn số người nghiện mới và thực hiện những chương trình can thiệp giảm nguy cơ lây nhiễm HIV cho người nghiện ma túy cũ, tǎng cường công tác truyền thông và các chương trình can thiệp phòng lây nhiễm cho các đối tượng có nguy cơ (trẻ em đường phố, thanh niên, người vãng lai...) thì chúng ta sẽ phần nào kiểm soát được đại dịch.

Hồng Liên (SK&ĐS)