Khác với quá trình đổi mới trong một số lĩnh vực kinh tế - xã hội, đổi mới văn hóa luôn mang tính chủ động, có khả năng đi trước, vừa là nhân tố khởi xướng đổi mới, vừa tiếp nhận thành quả đổi mới. Bởi vì đổi mới văn hóa chính là đổi mới con người - chủ thể của đổi mới, và đổi mới môi trường tinh thần "sàn diễn" của những biến đổi của lịch sử.
Quá trình đổi mới văn hóa đã được những người "ưu thời mẫn thế" quan tâm trong suốt cả thế kỷ 20, nhưng tới những năm cuối thế kỷ, thì đòi hỏi đổi mới văn hóa, đổi mới tư duy và lối sống của con người trở thành sự thúc bách gay gắt.
Nhận lãnh trách nhiệm trước lịch sử, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã nêu cao trách nhiệm của mình trong định hướng đổi mới đất nước, đổi mới văn hóa dân tộc.
Bản thân đổi mới đất nước do Ðảng lãnh đạo chính là văn hóa. Ðồng chí Phạm Văn Ðồng từng nói: Ðổi mới là văn hóa, văn hóa là đổi mới. Không có khoảng cách giữa đổi mới tồn tại xã hội và đổi mới ý thức xã hội; mặt này là tiền đề và điều kiện của mặt kia và ngược lại.
Chính vì vậy đổi mới trong văn hóa có một ý nghĩa đặc biệt, liên quan toàn bộ sự nghiệp đổi mới đất nước.
Ðảng đã có nhiều văn kiện định hướng đổi mới sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, trong đó quan trọng nhất là Nghị quyết Trung ương 5 về "Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc" (1998) và Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 về công tác văn hóa (2003). Cùng với hai văn kiện trên, việc Nhà nước ta chấp nhận tham gia Chương trình Thập kỷ phát triển văn hóa của Tổ chức Giáo dục - Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) trong những năm cuối thế kỷ 20 đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới văn hóa theo kịp bước phát triển của đất nước và thời đại.
Ðại hội VI của Ðảng (1986) - Ðại hội đổi mới đất nước - đã đặt lên hàng đầu đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, mà cụ thể là đổi mới cung cách làm ăn, xây dựng cuộc sống, một nội dung cơ bản, lâu đời của văn hóa Việt Nam. Bắt đầu từ Ðại hội VI, trong quan niệm của người cộng sản Việt Nam, văn hóa không tách rời với đổi mới kinh tế, đã trở thành mục tiêu và động lực của đổi mới đất nước.
Hiểu văn hóa không chỉ là nhân tố di dưỡng đạo đức, tinh thần xã hội mà còn là sức mạnh thúc đẩy kinh tế - xã hội, góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội là một bước phát triển mới trong tư duy của Ðảng, Nhà nước ta về vai trò, vị trí của văn hóa.
Giáo sư Nguyễn Hồng Phong qua nghiên cứu lịch sử dân tộc, khẳng định: nguồn gốc của sự nghèo khổ của dân tộc nằm trong văn hóa. Nhiều nhà văn hóa, nhà trí thức khoa học yêu cầu đặt lại vai trò của văn hóa, vai trò của con người trong sự nghiệp phát triển.
Lần đầu tiên, các văn bản của Ðảng, Nhà nước nói nhiều đến "nhân tố con người". Nhân tố con người, gắn liền thế giới văn hóa tinh thần của nó, được coi là nhân tố chủ đạo của sự phát triển. Ðề cao nhân tố con người, đề cao văn hóa dân tộc đó là một thành công của tư duy đổi mới những năm qua.
Không dừng lại ở việc nhấn mạnh tầm quan trọng và vai trò to lớn của văn hóa đối với quá trình đổi mới đất nước, Kết luận của Hội nghị Trung ương 10 về công tác văn hóa (2003) còn xác lập vị trí của công tác văn hóa, hình thành một kết cấu chặt chẽ và đồng bộ giữa nhiệm vụ kinh tế là trung tâm, xây dựng Ðảng là then chốt với xây dựng văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo thế chân vạc vững chắc cho quá trình phát triển đất nước.
Gắn liền với nhận thức mới về vai trò, vị trí của văn hóa trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là quan niệm ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn về phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam hiện đại. Nói vắn tắt, đó là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong nền văn hóa đó, hai yếu tố cơ bản là tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc đã phản ánh mối liên hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của văn hóa trong quá trình vận động, phát triển đã được thể hiện đầy đủ.
Ðể đáp ứng đòi hỏi chân - thiện - mỹ của dân tộc và yêu cầu của thời đại, nền văn hóa đó nhất thiết phải mang bản chất tiên tiến trong cả nội dung và hình thức, hiện thân của chủ nghĩa yêu nước và tiến bộ xã hội, phải thể hiện lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phải kết hợp được những giá trị lâu đời của dân tộc và tinh hoa của thời đại.
Mặt khác đó phải là nền văn hóa "đậm đà bản sắc dân tộc", để có thể hội nhập, giao lưu với thế giới hiện đại mà không rời xa những giá trị bền vững của dân tộc đã hun đúc qua lịch sử làm nên cốt cách, vóc dáng tốt đẹp của văn hóa Việt Nam, con người Việt Nam.
Cả hai yếu tố "tiên tiến" và "đậm đà bản sắc dân tộc" là hai mặt của một chỉnh thể, bổ sung cho nhau, làm điều kiện để thúc đẩy nhau cùng phát triển, làm cho văn hóa Việt Nam không ngừng đơm hoa, kết trái trong đời sống xã hội hiện đại.
Thực tế đổi mới 20 năm qua cho thấy phương hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã được thừa nhận trong chính cuộc sống, được sự nhất trí của nhân dân và đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, những người hoạt động văn hóa.
Ngày nay đứng trước quá trình toàn cầu hóa và bùng nổ thông tin, mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, sâu sắc, phương hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc càng tỏ rõ sức sống vững vàng của nó, mở đường cho nhân dân ta vượt qua thách thức, vươn tới những đỉnh cao của văn minh và tiến bộ.
Hướng tới một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng chính là hướng đến một nền văn hóa của nhân dân, của các dân tộc trong một quốc gia đa dân tộc, thống nhất mà đa dạng, không ngừng dân chủ hóa và xã hội hóa phương thức hoạt động, bảo đảm quá trình sáng tạo đến tay mỗi người, thành quả sáng tạo đối với mỗi người, làm cho xã hội nước ta đạt tới một đời sống văn hóa cao, dân trí phát triển, lối sống lành mạnh.
Ðổi mới nội dung và phương thức hoạt động văn hóa là một thành tựu rõ nét của quá trình xây dựng văn hóa 20 năm qua. Từ chỗ quan niệm văn hóa có quan hệ chặt chẽ với lĩnh vực chính trị, tư tưởng do Nhà nước tổ chức để phục vụ nhân dân, chúng ta đã xây dựng các hoạt động văn hóa thông tin, khoa học, giáo dục,... thành sự nghiệp của toàn xã hội, đáp ứng nhu cầu lợi ích chính đáng của mọi người dân, đã thu hút tài năng, sáng kiến, công sức của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng văn hóa. Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa", hoạt động văn hóa trong mỗi khu dân cư, trong các làng bản văn hóa, gia đình văn hóa... đã trở thành cuộc vận động văn hóa rộng rãi, đi dần vào nền nếp.
Cho đến cuối năm 2004, cả nước đã có 13.162 làng văn hóa, 9 triệu 9 gia đình văn hóa, 19.150 cơ quan văn hóa đã được công nhận; 5.126 nhà văn hóa, 6.750 điểm bưu điện - văn hóa được xây dựng; hơn 51 nghìn bản hương ước, quy ước văn hóa thôn xóm được phê duyệt; 2.792 di tích văn hóa được xếp hạng quốc gia. Ðã có sáu di sản văn hóa và thiên nhiên nước ta được đưa vào danh mục di sản thế giới. Nhiều di tích văn hóa lịch sử đặc biệt quan trọng của nước ta đã được phát hiện và trùng tu tôn tạo như Hoàng thành Thăng Long, Cung điện Huế, Ðền Hùng, các đền tháp Chăm Pa...
Những thành tựu mới về văn hóa, về tuổi thọ đã góp phần nâng cao chỉ số phát triển con người (HDI) của nước ta. Năm 2005, chỉ số phát triển con người của Việt Nam được xếp vị trí 108 trong 177 nước, nâng lên bốn bậc so với năm trước. Tuổi thọ của con người Việt Nam từ 63 tuổi (năm 1990) lên 71,3 tuổi (năm 2005). Ðiều đó cho thấy, trong khi thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp (630 USD/người) thì những tiến bộ về văn hóa, lối sống cũng đã đưa chỉ số phát triển con người của Việt Nam cao hơn những nước có mức thu nhập tương đương.
Trong văn hóa, hoạt động thông tin và văn học nghệ thuật luôn luôn là nhân tố năng động, có tác động thường xuyên lên nhận thức và tình cảm con người. Với sự tham gia của 15 nghìn nhà báo và 17 nghìn văn nghệ sĩ hoạt động trong 10 hội văn học nghệ thuật Trung ương, các hoạt động báo chí, xuất bản, văn học nghệ thuật nước ta đã trở nên sôi nổi, phong phú, lôi cuốn ngày càng rộng rãi sự hưởng ứng của toàn xã hội. Hệ thống phát thanh đã đáp ứng hơn 90% và truyền hình hơn 85% nhu cầu thông tin của nhân dân cả nước; hệ thống in-tơ-nét mở rộng nhanh chóng với gần 10% dân số truy cập; hệ thống xuất bản đã cung cấp được hơn 3,5 bản sách/đầu người.
Chúng ta đã có những cuộc thi tìm hiểu truyền thống cách mạng, thu hút hơn một chục triệu người tham gia, những tập nhật ký của Ðặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc in trên 200 nghìn bản; những lễ hội dân tộc hàng vạn người tham dự, những chương trình âm nhạc qua sóng truyền hình có hàng vạn người theo dõi, những nghệ sĩ trẻ được xã hội chào đón từ những tác phẩm đầu tiên...
Quyết tâm và lòng tin vào sự nghiệp đổi mới văn học nghệ thuật, khoa học kỹ thuật, văn hóa thông tin ngày càng đậm nét trong tâm trí nhân dân và đội ngũ trí thức sáng tạo. Các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp của giới trí thức, văn nghệ sĩ, báo chí đang mở rộng sức tập hợp và nâng cao chất lượng hoạt động. Tinh thần tự do sáng tạo và sự giúp đỡ vật chất của Nhà nước và xã hội cho hoạt động văn học nghệ thuật, báo chí, xuất bản ngày càng thiết thực, có hiệu quả. Phong trào văn hóa, văn nghệ quần chúng và các hình thức, sáng kiến xây dựng văn hóa trong nhân dân phong phú, sinh động hơn trước.
Trong thành tựu chung, những chuyển biến trong xây dựng văn hóa các dân tộc thiểu số là rất đáng kể. Ý thức về bình đẳng dân tộc, mối quan tâm về những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số và quyết tâm nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân các dân tộc anh em là những chuyển biến có ý nghĩa.
Nhà nước đã có nhiều chính sách để đưa sản phẩm văn hóa, thông tin đến vùng sâu, vùng xa, vùng các dân tộc thiểu số. Công tác sưu tập, bảo tồn văn hóa dân tộc được đẩy mạnh. Các chương trình phát thanh, truyền hình quốc gia và địa phương đã phát sóng hàng chục ngôn ngữ dân tộc. Các lễ hội văn hóa dân tộc được tổ chức. Con em các dân tộc thiểu số được tạo điều kiện đến trường. Nếp sống văn minh được hình thành trong nhiều thôn bản.
Nếu nói một chính sách văn hóa đúng là khi chính sách đó được cộng đồng yếu thế nhất tiếp nhận và tham gia, thì sự phát triển văn hóa, tinh thần trong đồng bào dân tộc thiểu số vừa qua đã chứng minh thắng lợi của đường lối, chính sách đổi mới trong sự nghiệp văn hóa Việt Nam.
Những tiến bộ đạt được không tách rời quá trình đổi mới tư duy quản lý văn hóa của nước ta. Cùng với nhiều ngành quản lý khác, quản lý văn hóa đặt trọng tâm vào ban hành, hướng dẫn và thực thi luật pháp.
Trong 20 năm qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã ban hành hàng trăm văn bản luật pháp liên quan sự nghiệp văn hóa, trong đó đáng chú ý là các văn bản luật pháp trực tiếp quy định công tác báo chí, xuất bản, bản quyền, di sản văn hóa, thư viện, điện ảnh, quảng cáo, biểu diễn nghệ thuật...
Những quy định luật pháp đã mở đường cho sự tham gia của xã hội vào các hoạt động văn hóa, giữ vững định hướng xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời đẩy lùi những tiêu cực, sai trái trong hoạt động văn hóa. Bên cạnh luật pháp, nhiều chính sách phát triển văn hóa được ban hành, hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở được tăng cường. Nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa trong Ðảng gắn liền với Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, nâng cao phẩm chất đảng viên được đặt ra, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới văn hóa nói riêng.
20 năm đổi mới không phải là dài đối với đời sống văn hóa dân tộc và sự phát triển tinh thần của con người. Nhưng sự chuyển mình của văn hóa Việt Nam và thành tựu bước đầu của văn hóa dân tộc đã cho thấy đường lối đổi mới văn hóa của Ðảng là đúng đắn, quy tụ được năng lực sáng tạo và tâm hồn nhân dân, xây dựng lòng tin, mở ra hướng phát triển tích cực và lành mạnh trong những thập kỷ đầu của thiên niên kỷ mới.
Tuy nhiên, những vấn nạn của một nước kém phát triển, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh tế còn in dấu ấn không nhỏ lên đời sống văn hóa. Ðể khắc phục khó khăn và thách thức, quá trình đổi mới văn hóa trong chặng đường sắp tới cần quan tâm giải quyết những vấn đề sau:
Một là, sự hình thành bước đầu thị trường văn hóa và mở rộng xã hội hóa hoạt động văn hóa đang đặt chúng ta trước những trách nhiệm nặng nề và thách thức không nhỏ đối với năng lực quản lý và trình độ tổ chức hoạt động của đội ngũ cán bộ văn hóa.
Bên cạnh những thành tựu không thể tranh cãi đạt được trong điều kiện cơ chế mới, hoạt động văn hóa hiện nay còn bộc lộ những xu hướng không lành mạnh, có mặt khá nghiêm trọng. Ðó là xu hướng "thương mại hóa" - nói thẳng ra là xu hướng chạy theo lợi nhuận, coi thường chất lượng văn hóa đã lan tràn trong nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa.
Hiện tượng "đạo văn, đạo nhạc", vi phạm bản quyền, làm dối, làm ẩu, lén lút lưu hành văn nghệ đồi trụy, độc hại, kể cả mãi dâm, ma túy... đang làm vẩn đục môi trường văn hóa một số thành phố lớn. Trong khi đó, công tác quản lý văn hóa không theo kịp tình hình, tỏ ra lúng túng, bị động.
Một số nơi, nhận thức không đúng tính đặc thù của thị trường văn hóa, đánh đồng sản phẩm, dịch vụ văn hóa với các hàng hóa thông thường khác, có xu hướng buông lỏng quản lý chất lượng tư tưởng, không chăm sóc, đầu tư nâng cao chất lượng văn hóa. Rõ ràng yêu cầu đổi mới và nâng cao trình độ quản lý văn hóa là yêu cầu cực kỳ quan trọng nhằm đảm bảo trong điều kiện mới, văn hóa nước ta phát triển lành mạnh, đúng hướng.
Hai là, nhìn chung chất lượng báo chí, xuất bản, các hoạt động văn học nghệ thuật của ta chưa cao, chúng ta còn thiếu những tác phẩm có tính tư tưởng cao, hình thức nghệ thuật hấp dẫn, có sức cổ vũ rộng rãi công chúng. Ðiều đó đòi hỏi sự nỗ lực sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ và những người cầm bút, yêu cầu tăng cường công tác phê bình lý luận văn học - nghệ thuật và văn hóa, đồng thời phải có chính sách giúp đỡ cụ thể của nhà nước và xã hội đối với văn hóa, nhất là đối với các lĩnh vực nghệ thuật truyền thống, những loại hình văn hóa nghệ thuật thể nghiệm, những chính sách hỗ trợ tài năng... Ðổi mới hoạt động của các hội nghề nghiệp trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật nhằm nâng cao chất lượng sáng tác cũng là một đòi hỏi cấp thiết.
Ba là, toàn cầu hóa về kinh tế và quá trình hội nhập quốc tế đang tạo ra cơ hội và thách thức không nhỏ đối với văn hóa nước ta. Tác động của văn hóa nước ngoài vào nước ta khá thường xuyên, với nhiều con đường, nhất là trên mạng in-tơ-nét, với cả mặt tích cực lẫn tiêu cực, tuy nhiên ứng phó của ta còn thiếu chủ động, thiếu một chiến lược vững chắc.
Ngày nay không thể chủ trương đóng cửa về văn hóa, nhưng tiếp nhận văn hóa nước ngoài như thế nào, giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài ra sao, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn chống phá văn hóa - tư tưởng trong kịch bản "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch như thế nào, là những vấn đề cần xử lý ở phạm vi quốc gia, cả trong từng địa phương, cơ sở, trong một chiến lược cụ thể.
Bốn là, lý luận xây dựng nền văn hóa mới dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh là vấn đề cần được bổ sung, hoàn chỉnh.
Là người vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại di sản tư tưởng - văn hóa rất sâu sắc, độc đáo. Một phần cơ bản nội dung tư tưởng của Người đã được vận dụng trong sự nghiệp xây dựng và đổi mới văn hóa vừa qua.
Tuy nhiên việc nghiên cứu có hệ thống, soi sáng các luận điểm cơ bản của Người dưới ánh sáng của thời đại để phát triển toàn diện văn hóa nước nhà, nâng cao nhân tố con người Việt Nam, xây dựng nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội Việt Nam hiện đại còn là nhiệm vụ to lớn đặt ra ở phía trước. Tin chắc rằng quá trình nghiên cứu, vận dụng và phát triển tư tưởng của Người trên lĩnh vực văn hóa sẽ mở ra những tiềm năng phát triển mới cho văn hóa nước nhà.
Cách đây 60 năm, trong ngày đầu của chính quyền mới - nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kêu gọi "văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi". Ðó là một câu nói bất hủ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đổi mới đất nước, chấn hưng văn hóa.
Trong hành trình mới của dân tộc, chúng ta cần phải tiếp tục nâng cao hơn nữa ngọn đuốc sáng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc mà linh hồn của nó là tư tưởng Hồ Chí Minh vĩ đại, mở ra bước phát triển ngày càng cao hơn của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
NGUYỄN KHOA ÐIỀM, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư T.Ư Ðảng, Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa T.Ư
|