Bất cứ ai nhìn một người chết vì AIDS cũng biết rằng việc điều trị căn bệnh này là một việc thương tâm. Lý do của thảm kịch này là các thầy thuốc, mặc dầu trãi qua một thế kỷ y học hiện đại, không có phương thuốc nào khôi phục được hệ thống miễn dịch bị thương tổn.
Thuốc duy nhất được dùng để trị nhiễm HIV là Zidovudine, thường gọi là “AZT” hay Retrovir. Các bệnh nhân dùng AZT vì họ nghĩ nó tốt cho máu và hệ thống miễn dịch. Họ tin nó sẽ giết vi rút, và ngăn ngừa KS, viêm phổi pneumocystis và các lây nhiễm có tính cơ hội khác. Nhưng thực ra, AZT không làm các việc đó.
Thực tế là AZT cực kỳ độc cho máu. Kết quả là nhiều bệnh nhân dùng lâu AZT cần truyền máu thường xuyên. AZT không ngăn ngừa KS và viêm phổi pneumocystis, cũng không ngăn ngừa bất kỳ lây nhiễm cơ hội chết người nào của AIDS. Khi AZT được kết hợp với các thuốc khác, tính độc của nó tăng lên.
Kinh thánh về thuốc của các bác sĩ là cuốn PDR (Physician’s Drug Reference – Sách tham khảo thuốc của thầy thuốc) cảnh báo rõ ràng : “Trị liệu bằng AZT có thể kèm theo ngộ độc huyết học bao gồm chứng giảm bạch cầu hạt (số bạch huyết thấp) và thiếu máu nghiêm trọng cần truyền máu. Ngoài ra, các bệnh nhân điều trị bằng AZT có thể tiếp tục phát triển các lây nhiễm cơ hội và các biến chứng khác của nhiễm HIV”.
Tại sao các bác sĩ kê đơn AZT ? Tại sao mà một bệnh nhân lại để mình được điều trị bằng một thuốc độc như vậy ? Câu trả lời thật đơn giản : AZT là thuốc duy nhất được FDA (Cơ quan quản lý Dược - Thực phẩm Hoa Kỳ) duyệt cho bệnh AIDS, và việc duyệt đó dựa trên những nghiên cứu cố chứng minh rằng AZT kéo dài sự sống. Do đó, các thầy thuốc điều trị AIDS bằng AZT; và các bệnh nhân từ chối dùng thuốc này thường bị coi là khó bảo, không hợp tác và không khôn ngoan. Khi có biến chứng ở những người dùng AZT, bác sĩ có khuynh hướng đổ lỗi cho “vi rút”. Khi có vấn đề y tế nảy sinh với những người không dùng AZT, thầy thuốc đổ lỗi cho bệnh nhân không chịu dùng AZT.
Các nguy cơ của AZT được chứng minh rõ ràng trong ca của John Kuivenhoven, một người đàn ông đồng tính đã được điều trị sai lầm về AIDS “phát triển đầy đủ” trong sáu năm bằng AZT và các thuốc thử nghiệm khác. Các tác dụng phụ đau đớn của thuốc chữa AIDS đó đã tàn phá sức khỏe của ông, buộc ông phải bỏ việc trong khi đợi chết. Giờ đây, người ta biết rằng ông chưa bao giờ bị AIDS, ông cũng chưa từng xét nghiệm HIV cho tới năm 1992, khi mà cuối cùng phát hiện ra rằng ông không bị suy giảm miễn dịch và có kết quả xét nghiệm HIV âm tính.
Kuivenhoven đã đệ đơn kiện đòi bồi thường 2 triệu đôla đối với Kaiser Permanente, tổ chức bảo dưỡng sức khỏe lớn nhất nước. Luật sư của ông tuyên bố rằng những liều cao AZT làm cho khách hàng của mình nhức đầu kinh niên, cao huyết áp và liên tục đau các cẳng chân (bệnh thần kinh ngoại biên). Các thầy thuốc thường đổ lỗi các triệu chứng của AIDS đó cho “vi rút”. Tuy nhiên, nếu các thuốc được duyệt về AIDS có thể gây những tác dụng phụ phá hoại như vậy ở một người HIV âm tính và không suy giảm miễn dịch như ông Kuivenhoven, thì các thuốc đó đóng góp bao nhiêu vào sự đau đớn và những cái chết của các bệnh nhân AIDS có HIV dương tính ?
AIDS thường được coi là căn bệnh “chắc chết”. có hay không có AZT, kết cục cuối cùng là chết. Vào lúc ban đầu của dịch AIDS, các chuyên gia dự đoán 10% những người đồng tính nhiễm HIV sẽ có AIDS phát triển đầy đủ. Giờ đây hầu hết các nhà nghiên cứu tin rằng 90% những người HIV dương tính cuối cùng sẽ chết vì căn bệnh này. Có những người khẳng định rằng AIDS không phải là một bản án tử hình và có thể “chữa”, nhưng phần lớn các chuyên gia bác bỏ khả năng đó. Dẫu sao thì cũng có một số ít người thoát chết một thời gian dài tuyên bố đã chinh phục được AIDS.
Cái gì quyết định một phương thuốc chữa AIDS ? Tuy không tồn tại một phương thuốc AIDS được chấp nhận về mặt y học, dường như hợp lý khi chấp nhận một “định mức chữa năm năm”, như đối với bệnh nhân ung thư. Cơ quan thẩm quyền y học coi bất kỳ bệnh nhân ung thư nào sống được 5 năm sau khi chẩn đoán là “chữa được ung thư”. Ngay dù một bệnh nhân chết vì ung thư hơn 5 năm sau khi chẩn đoán, bệnh nhân vẫn được coi là “khỏi bệnh”.
Trong suốt thời gian hành nghề của tôi, chỉ có một người đồng tính (một đàn ông trung niên da đen) bị AIDS phát triển đầy đủ mà còn mạnh khỏe và sống sót sau hơn 5 năm. Bệnh của ông bắt đầu với những hạch bạch huyết lan rộng ở bẹn, chứng tỏ đó là KS kiểu thông thường ở châu Phi. Ông còn có rất nhiều thương tổn da kiểu KS, và các cẳng chân bị sưng. Tuy các xét nghiệm máu cho thấy chứng cớ ức chế miễn dịch, ông vẫn cảm thấy khỏe và khôgn bị tàn tật bất cứ kiểu gì. Ông không bao giờ dùng AZT hay hóa trị liệu.
Tuy chúng ta có “các thuốc chữa ung thư 5 năm” và AZT, việc điều trị và chẩn đoán cho ung thư giai đoạn cuối và AIDS vẫn còn cực kỳ xấu đối với nhiều bệnh nhân.
Trong những năm 1960, tôi bắt đầu nghiên cứu “vi khuẩn ung thư”, là tác nhân lây nhiễm đi đôi với ung thư và các bệnh về miễn dịch khác. Vi khuẩn cũng là “đồng nhân tố” lây nhiễm không nhận ra, cần thiết cho sự phát triển đầy đủ AIDS. Không may là mọi mặt nghiên cứu vi khuẩn ung thư đã bị các cơ quan y tế thẩm quyền bỏ qua. Các chi tiết về một thế kỷ nghiên cứu vi khuẩn ung thư đã được ghi lại trong cuốn sách của tôi Vi khuẩn ung thư (1990).
Vi khuẩn ung thư tồn tại trong máu và trong tổ chức bị tổn thương vì ung thư và AIDS. Sự hiểu biết về vi khuẩn này và độc tính của nó là nhân tố cốt yếu để hiểu tại sao AIDS và ung ung thư là những căn bệnh tàn phá như vậy. Trước khi tác nhân lây nhiễm này được nhận ra, người ta ngờ rằng y học sẽ chẳng bao giờ đạt tới điều trị có hiệu quả AIDS và ung thư.
Theo quan điểm của tôi, phát hiện khoa học quan trọng nhất của thế kỷ này là nhận dạng được vi khuẩn ung thư. Vi khuẩn ung thư thì “đa hình”, nghĩa là vẻ bề ngoài trên kính hiển vi của nó có thể thay đổi, phụ thuộc vào giai đoạn sinh trưởng của nó. Các nhà nghiên cứu đã chứng tỏ rằng nó có thể giống các vi rút và vi trùng. Vi khuẩn ung thư tồn tại trong mọi sinh vật.
Việc phát hiện các vi khuẩn ung thư ở người và động vật có liên quan tới sự có mặt khắp nơi của chúng trong mọi vật chất sống. Việc các nhà khoa học không đủ năng lực nhận ra tầm quan trọng sinh học sâu sắc của vi khuẩn ung thư đã dẫn tới các cuộc thử nghiệm vi rút động vật nguy hiểm và nghiên cứu chiến tranh vi trùng. Kết quả của toàn bộ nghiên cứu công nghệ cao đó là sự sản xuất và gieo rắc “các vi rút siêu đẳng” đột biến, giờ đây đe dọa lây nhiễm toàn thể loài người.
Vi khuẩn ung thư cư trú trong mỗi tế bào, và y học không nhận biết được. Kghi một tế bào bị thương tổn (vì bất cứ ký do gì), vi khuẩn ung thư trở nên hoạt động. Khả năng của vi khuẩn ung thư đa hình có thể hiện ra như một vi rút và như một vi trùng, thách thức mọi quy luật của vi sinh học. Tính đa hình của vi khuẩn ung thư giống như con tắc kè luôn thay đổi màu sắc là lý do chính tại sao vi khuẩn đã không được giới y học “thừa nhận”.
Vi khuẩn ung thư đã được chứng minh bằng kính hiển vi trong các bệnh miễn dịch, trong ung thư và trong các tổ chức bị thương tổn vì AIDS. Vi khuẩn ung thư là tác nhân lây nhiễm gây nên u ác tính trên da (KS). Vi khuẩn này đã được nhận ra trong mô tế bào bị KS, trong các hạch bạch huyết bị sưng đi đôi với AIDS và trong các cơ quan bị AIDS làm thương tổn. Tuy nghiên cứu này đã được công bố trong các tạp chí y học có tiếng, giới thẩm quyền về AIDS vẫn hoàn toàn làm ngơ.
Nhiều dạng khác nhau của vi khuẩn ung thư cư trú trong máu của các cá thể khỏe mạnh và ốm yếu. Một hệ thống mễn dịch bình thường cho phép vi khuẩn ung thư tồn tại trong sự cân bằng thích hợp bên trong cơ thể. Tuy nhiên, trong trạng thái có bệnh, vi khuẩn ung thư sẽ sinh sôi nảy nở. Sự phát triển các mầm bệnh đó trong máu và trong các tổ chức của bệnh nhân là nguyên nhân của phần lớn sự nhiễm độc và tê liệt kèm theo ung thư và AIDS. Sự thiếu máu nghiêm trọng của các bệnh nhân ốm nặng chủ yếu là do các vi khuẩn ung thư phá hủy các hồng huyết cầu. Các thuốc độc như AZT tăng cường quá trình hủy hoại đó.
Mặc dù có một thế kỷ nghiên cứu vi khuẩn ung thư, các nhà khoa học vẫn tin rằng máu bình thường là “vô trùng”. Song, sự quan sát đơn giản về máu bằng cách dùng một kính hiển vi “trường tối” đã cho thấy rõ ràng các yếu tố của vi khuẩn ung thư.
Các hạt nhỏ nhất của vi khuẩn là những dạng sống, là những khối cấu trúc nhỏ nhất của tự nhiên. Tiến sĩ y khoa Virginia Livingston, người đã nghiên cứu vi khuẩn ung thư hơn 40 năm, tin rằng các vi rút ung thư đều liên quan với vi khuẩn ung thư có ở khắp nơi.
Cuốn sách của bà Cuộc chinh phục bệnh ung thư (1984) đã tạo ra tiếng vang trong cộng đồng khoa học. Một bài báo không có tính chất tán dương, viết về những ý tưởng cách mạng của bà trong vấn đề vi trùng ung thư đã xuất hiện trên tờ Thời báo
Trong nhiều năm, Virginia Livingston đã là bạn và là thầy của tôi, và tôi kính trọng bà hơn bất kỳ thầy thuốc nào tôi biết. Trong nghiên cứu được công bố của tôi, tôi đã khẳng định nhiều quan sát của bà về vi trùng trong ung thư và các bệnh miễn dịch khác. Trong bài viết cho tờ Thời báo, tôi đã bảo vệ quan điểm không chính thống của Virginia Livingston về tính chất truyền nhiễm của ung thư.
Các đối thủ khoa học của
Cũng năm ấy, người ta hỏi Gallo về phát hiện của tôi về vi trùng trong KS, trong một cuộc phỏng vấn do James D’Eramo tiến hành trên tờ Người New York (số ra ngày 9-9-1984). Gallo đáp :”Tôi không biết nguyên nhân của KS. Điều phỏng đoán của tôi là nó có thể liên quan tới HTLV -3 (HIV) theo cách nào đó.” D’Eramo hỏi tại sao KS lại xảy ra phần lớn ở đàn ông đồng tính, Gallo trả lời :”Tôi không biết. KS làm tôi bối rối.”
Mấy năm sau, vào năm 1991, Gallo vẫn im lặng về các báo cáo được công bố của tôi về vi trùng trong KS. Khi nói với các nhà khoa học về AIDS, ông ta tuyên bố mình đang tìm kiếm tới cùng “đồng nhân tố bí ẩn” trong KS. “Tôi muốn nói với các vị rằng chúng ta đã tìm kiếm 7 năm, và chúng ta không tìm thấy bất kỳ vi rút hay vi khuẩn nào khác. Điều đó không có nghĩa là nó không có ở đó, mà có nghĩa là chúng ta hay bất cứ ai khác đã không tìm thấy mối liên hệ bị thiếu”.
Các phương diện nghiên cứu vi khuẩn ung thư có liên quan đến nghiên cứu hiện nay của Luc Montagnier, người phát hiện ra vi rút gây AIDS. Montagnier công bố tại Hội nghị AIDS quốc tế lần thứ sáu rằng ông ta đang nghiên cứu một vi khuẩn rất nhỏ gọi là một “mycoplasma” (Một loại trong nhóm các vi sinh vật rất nhỏ không di động, khôgn có thành tế bào cứng và vì thế nó có thể có nhiều dạng) mà ông đã tìm thấy ở AIDS. Các mycoplasma là các tác nhân gây nhiễm, là một phần vi rút và một phầnvi trùng. (Nhớ lại những năm 1950 và 1960, Virginia Livingston đã công bố công trình nghiên cứu chứng tỏ rằng vi khuẩn ung thư có một giai đoạn giống mycoplasma
▪ Hà Nội có trung tâm điều trị bệnh nhân AIDS đầu tiên (24/01/2006)
▪ Hãy đợi đấy chai ruợu ạ (22/01/2006)
▪ Âm mưu diệt chủng bí mật bằng AIDS. Kì 8: Những người da đen (21/01/2006)
▪ Âm mưu diệt chủng bí mật bằng ADS. Kì 9: Sự kì thị (22/01/2006)
▪ Âm mưu diệt chủng bí mật bằng AIDS. Kì 7: AIDS, căn bệnh mới hay cũ? (20/01/2006)
▪ Mời thảo luận: Tuổi trẻ với Giới tính và HIV (15/01/2006)
▪ Nâng cao năng lực truyền thông về HIV/AIDS (19/01/2006)
▪ Các văn bản của Đảng, Nhà nước về phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam (18/01/2006)
▪ Số người nhiễm HIV ở Hà Nội sẽ giảm (17/01/2006)
▪ "Ma tuý đã làm thay đổi cuộc sống" (14/01/2006)