Âm mưu diệt chủng bí mật bằng ADS. Kì 9: Sự kì thị
Các Website khác - 22/01/2006
 

9. Sự kỳ thị.

Từ khi lịch sử bắt đầu được ghi chép, chưa từng có một nhóm đàn ông hay phụ nữ nào bị mọi người căm thù và khinh bỉ như những người đồng tính. Bị lên án như những kẻ có tội và bị những người Do Thái, Cơ đốc và Hồi giáo ruồng bỏ, trừng phạt đối với hành vi đồng tính thường là sự nhục nhã, bỏ tù và thậm chí cái chết. Luật nước Anh thời Trung cổ là chôn sống những kẻ kê gian (giao hợp qua đường hậu môn). Trong thế kỷ XVI, luật nhẹ hơn, cho phép treo cổ.

Việc giết những người đồng tính vẫn còn tiếp tục cho đến hiện nay ở nhiều nơi trên thế giới. Có báo cáo là những đội xử tử bán quân sự ở Côlômbia và Êcuađo đã giết hơn 300 người đồng tính trong những năm từ 1986-1990. Theo thông tin của mạng San Francisco Latino, hơn 1200 người đồng tính nam và đồng tính nữ đã bị giết ở Braxin trong thập kỷ qua. Các đội xử tử ở Pêru cũng chịu trách nhiệm về những cái chết của hàng trăm người đồng tính. Ngày 12 tháng 7 năm 1992 năm nhà hoạt động AIDS đồng tính đã bị giết một cách dã man ở thủ đô Mêxicô. Một trong số người đã được tìm thấy bị tra tấn, đâm dao và thắt cổ là tiến sĩ Francisco Estrada Valle, Chủ tịch và là người sáng lập của Ave de Mexico, tổ chức giáo dục và trợ giúp AIDS hàng đầu nước này.

Một cuộc khảo sát gần đây cho thấy rằng cứ một trong ba người Nga được cho là đồng tính nam và đồng tính nữ phải bị “trừ khử”. Năm 1988, Chính phủ Ixraen hủy bỏ một đạo luật phạt tù mười năm tội kê gian. Ở hạt Los Angeles, đàn ông đồng tính thường hay trở thành nạn nhân nhất của các hành động tội phạm bạo lực. Khi dẫn ra kinh thánh, một số lãnh tụ Cơ đốc giáo chính thống tiếp tục ủng hộ án tử hình đối với những kẻ kê gian. Các nhóm phân biệt chủng tộc da trắng cũng kêu gọi giết những người đồng tính như một phần của chương trình “niềm kiêu hãnh da trắng” và “quyền lực da trắng” của chúng.

Khuynh hướng tình dục của 75% các ca AIDS hiện nay trên thế giới là tình dục khác giới. Sự kiện này không ngăn cản Pat Buchanan, một ứng cử viên của Đảng Cộng hòa cho chức Tổng thống Mỹ năm 1992, rao giảng rằng AIDS là sự trừng phạt của Chúa đối với bọn đồng tính. Thị trưởng New York David Dinkins, người đã tự hào đi cùng những người đồng tính trong cuộc diễu hành ngày lễ Thánh Patrick hàng năm của thành phố, đã bị Buchanan chỉ trích gay gắt là “vênh váo đi cùng bọn kê gian và xúc phạm những người Thiên chúa giáo”. Khi chửi rủa “bọn kê gian và đồng tính nữ”, vị ứng cử viên Tổng thống gọi các nam nữ đồng tính là bọn quỉ Sa tăng.

Những đòn tấn công của cánh hữu bây giờ đang lên đến đỉnh điểm khi mà giới đồng tính đang được phần lớn công luận chấp nhận. Đối với một số chính khách, đánh vào giới đồng tính là một kỹ thuật giành phiếu phổ biến. Nguyên Thượng nghị sĩ Mỹ Bill Armstrong, phát ngôn viên hiện tại cho “Bang Colorado vì những giá trị gia đình”, tin rằng AIDS “được tự tạo ra bởi những người đồng tính ham mê khoái lạc”. Nghị sĩ California William Dannemeyer nói rằng những người đồng tính giàu có và nhiều quyền lực âm mưu đề cao tình dục trụy lạc của họ. Ông phàn nàn “mạng lưới đồng tính” này ảnh hưởng xấu đến các chính sách về AIDS của Bộ Y tế và Phúc lợi con người của Mỹ.

Người truyền đạo trên truyền hình John Hagee bảo các tín đồ rằng “Nước Mỹ đang chết” vì AIDS và nạn đồng tính hoành hoành. Ông ta tuyên bố Chúa yêu những người đồng tính, nhưng nhà thờ của Chúa Giêsu sẽ không bao giờ chấp nhận đồng tính luyến ái như một lựa chọn lối sống kiểu khác.

Về nguồn gốc của AIDS, Hagee nhắc lại “một thuyết chính” là “AIDS bắt đầu trong các nhà tù châu Phi, trong đó hàng ngàn người đàn ông bị tước bỏ tình dục bình thường đã quay sang tình dục lầm lạc. Sự nhiễm trùng do tình dục lệch lạc đã dẫn tới nhiễm bệnh AIDS”. Hageecó một cách chữa AIDS : sự trinh bạch.

Những kẻ kỳ thị cơ đốc giáo tin rằng những người đồng tính “chống lại gia đình” và đi lệch khỏi “các giá trị gia đình truyền thống”. Tuy vậy, đổ lỗi cho những người đồng tính về sự băng hoại gia đình hiện nay ở Mỹ là phi lý.

Những vấn đề lớn về tâm sinh lý và xã hội giờ đây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội Mỹ. Theo Trung tâm Nạn nhân Quốc gia, 683.000 phụ nữ đã bị hiếp dâm ở Mỹ năm 1990, nhưng chỉ có 16% nạn nhân báo cáo về tội phạm này. Tại Mỹ, cứ tám phụ nữ thì có một người bị tấn công cưỡng bức tình dục. Hai triệu rưỡi trẻ em bị lạm dụng tình dục hàng năm, 1.200 cháu chết vì sự lạm dụng ấy. Ở Los Angeles mỗi tuần có một cháu bé bị giết, ở thành phố New York tỷ lệ là mỗi tuần hai cháu. Một nghiên cứu gần đây ở California tiết lộ rằng cứ một trong năm cháu gái, và một trong bảy cháu trai bị họ hàng gạ gẫm tình dục.

Một triệu vị thành niên tìm cách tự tử mỗi năm. Một phần tư số đó cần điều trị y tế. Gần 30% thiếu niên đồng tính cố tự sát.

Cứ hai trong ba trẻ em da đen, và một trong ba trẻ em Mỹ la tinh sinh ra có cha mẹ không cưới nhau; 40% người da đen và 35% người Mỹ la tinh sinh ra đã nghèo khổ, ở California một nửa số trẻ em sống trong các gia đình chỉ có cha hoặc mẹ.

Hàng năm, trên một nửa triệu trẻ em được sinh ra bởi cha mẹ ở lứa tuổi vị thành niên. Hơn 25% trẻ em California (trên 2 triệu) không có bảo hiểm y tế.

Đối với việc thanh toán theo yêu cầu của luật pháp để nuôi trẻ, một phần tư của tổng số những người cha không chi gì cả, một nửa số người cha trả ít hơn yêu cầu của tòa án. Có phải những người đồng tính nam và đồng tính nữ chịu trách nhiệm trước tiên về những con số thống kê bất hạnh ấy, phản ánh “các giá trị gia đình trong những năm 1990” ở Mỹ ?

Năm 1991, hai mươi bốn ngàn người Mỹ đã bị giết; đã ghi lại được 1.800 nạn nhân bị giết ở Los Angeles, nơi tôi ở. Mỹ đứng đầu thế giới về số tọi phạm giết người. Có trên 5,6 triệu tội phạm bị kết án; và nước Mỹ bỏ tù nhiều người tính theo đầu người hơn bất kỳ nước nào khác trên thế giới. Năm 1991, các nhà tù cấp bang và liên bang chứa 823.414 tù nhân, tăng 150% tính từ năm 1980.

Vào tuổi 19, một nửa triệu thanh thiếu niên có quan hệ tình dục. Năm 1991, một cuộc nghiên cứu cấp chính phủ được đề xuất để tiếp tục xác định phạm vi đầy đủ hành vi tình dục của thanh thiếu niên và người lớn đã bị hủy bỏ, chủ yếu là do sự phản đối ở quốc nội của dân biểu William Dannemeyer, thượng nghị sĩ Jesse Helms và các chính khách có quyền lực khác muốn đề cao “các giá trị gia đình truyền thống”.

Từ khi có AIDS, tội kê gia giờ đây là một đề tài nổi bật cho các phân tích và thảo luận khoa học. Tuy công chúng nghĩ tất cả đàn ông đồng tính đều kê gian, việc thực hiện tình dục bằng đường hậu môn và bằng miệng của những người tính dục khác giới ít được để ý tới
Tiến sĩ June Renisch, Giám đốc Viện Nghiên cứu tình dục Kinsley ước tính có 39% phụ nữ trưởng thành Mỹ tham gia giao hợp hậu môn, cùng khoảng chừng đó số nam giới. Dựa trên một số nghiên cứu, bà cũng khẳng định rằng 29% các bà vợ Mỹ ít nhất có một lần ngoại tình. Cứ tám trong mười đàn ông đồng tính cũng có quan hệ tình dục với một phụ nữ ít nhất một lần.

Theo số phát hành tháng 7 năm 1989 của ấn phẩm “Từ trung tâm tới trung tâm” (do Công ty burroughs Wellcome cung cấp cho các thầy thuốc), các số liệu khôgn công bố cho thấy 25% phụ nữ có chồng đã giao hợp qua hậu môn. Trong một nghiên cứu công bố trong cuốn Văn thư lưu trữ về hành vi tình dục năm 1991, Bruce Voeller khẳng định rằng 10% phụ nữ Mỹ và bạn tình nam giới của họ có hành vi tình dục hậu môn với mức độ đều đặn nào đó. Ông kết luận rằng “tình dục qua hậu môn trong những người Mỹ tính dục khác giới được giữ khá bí mật, có thể gồm 16 triệu người hay nhiều hơn nữa”. Những thống kê sơ bộ đó cho thấy rằng số kẻ kê gian có tính dục khác giới vượt xa tổng số đồng tính nam ở Mỹ.

Công chúng coi dân đồng tính là những người chung chạ bừa bãi. Từ điển định nghĩa sự chung chạ bừa bãi là “không giới hạn ở một bạn tình”. Nói một cách chặt chẽ, bất cứ ai có hơn một bạn tình là chung chạ bừa bãi. Vào khoảng những năm 1960, giáo sư da liễu của tôi một lần đã ranh mãnh nhận xét rằng một người chung chạ bừa bãi là người có nhiều bạn tình hơn anh. Tuy định nghĩa chính xác về sự chung chạ bừa bãi có thể còn phải bàn, sự thực trong cuộc sống là ngày nay càng ít người chỉ một vợ một chồng. Những người tính dục khác giới Mỹ thong thường chắc chắn không sống một vợ một chồng. Theo tờ Nước Mỹ ngày nay (số ra ngày 28-6-1991), những người Mỹ trung bình có bảy bạn tình bắt đầu từ tuổi 18.

Người ta không biết phạm vi ảnh hưởng đầy đủ đến sự lan truyền AIDS của hành vi lưỡng tính, đặc biệt của những người đàn ông lưỡng tính. Nhà nghiên cứu Schaar Gochros, tác giả cuốn Khi những người chồng thú nhận, ước tính rằng có 6 triệu đànông lưỡng tính Mỹ cưới vợ hay có quan hệ đầu tiên với một phụ nữ, nhưng bí mật có quan hệ tình dục với đàn ông.

Vấn đề ở đây không phải là để phê phán những người đồng tính, những người tình dục khác giới hay lưỡng tính, mà là nêu rõ rằng ngày nay phần lớn mọi người không phải là một vợ một chồng. Do đó, phần lớn nững người hoạt động tình dục đều có nguy cơ bị AIDS.

Tại sao có quá nhiều người ghét dân đồng tính ? Theo các nhà nghiên cứu của Viện Kinsley trong cuốn Tình dục và luân lý ở Mỹ (1989), việc công chúng không tán thành và sợ dân đồng tính “gắn liền với ba niềm tin thông thường : rằng họ ốm yếu, giống đàn bà, và nguy hiểm”.

Niềm tin họ ốm yếu dựa trên các thuyết phân tâm học lâu đời về đồng tính luyến ái. Ý tưởng cho rằng những người đồng tính nam giống đàn bà rõ ràng dựa trên khuôn mẫu vai trò tình dục thịnh hành trong nền văn hóa của chúng ta. Cái nhãn “nguy hiểm” thườn áp dụng cho các nhóm thiểu số, đặc biệt khi người ta biết ít về họ. Vác nà nghiên cứu kết luận rằng sự thù địch đối với dân đồng tính “dường như nảy sinh từ những điều giáo huấn từ thơ ấu, có khuynh hướng quán tính trừ phi cách sống của một người trở nên tự do về tình dục hơn so với cha mẹ, hoặc là nền giáo dục hình thức đưa người ta đến chổ nghi vấn thực sự những niềm tin và giá trị đã được học trong khi lớn lên”.

Nguồn gốc của AIDS ở Mỹ rõ ràng bắt nguồn từ các cuộc thử nghiệm với dân đồng tính do chính phủ tiến hành. Vào lúc mà Szmuness đang cẩn thận chọn lựa những người đàn ông đồng tính khỏe mạnh nhất ở Manhattan cho các cuộc thử vác-xin của mình, đất nước đang trãi qua thời kỳ kỳ thị nhất trong lịch sử.

Tháng 10 năm 1978, một tháng trước khi cuộc thử nghiệm của Szmuness bắt đầu, các cử tri California đang quyết định liệu có cấm những người đồng tính dạy trong các trường học của bang này hay không. “Dự luật 6” là một vấn đề tranh luận nóng bỏng trong giới truyền thông.

Tờ Thời báo Los Angeles (số ra ngày 15-10-1978) mang tiêu đề : “Các giáo viên đồng tính có phải là một mối đe dọa ?” James F.Baxter, một giáo viên đã 22 năm kinh nghiệm và là cha của bôan đứa trẻ, lên án đồng tính luyến ái như một sự lệch lạc với bản chất con người. Baxter gán cho những người đồng tính là “tàn tật” và không xứng đáng dạy trẻ. “Những người đồng tính bị kiểm soát bởi nững mối quan tâm về nhục dục chứ không phải trí tuệ, và trong bất kỳ tình huống nào khi hai mặt đó cạnh tranh nhau thì nhục dục sẽ thắng. Đồi bại, lệch lạc, kỳ quái và khác thường kông phải là các tính từ mà là những điều mô tả thích hợp cho hành vi đồng tính. Gọi một người đồng tính là gay (phóng đãng) thự tế là một hành động vô nhân đạo, vì nó không cho thấy yêu cầu đầu tiên nếu muốn chữa trị những què quặt tâm lý đó : sự thừa nhận khách quan về bệnh tật của họ”.

May thay, đa số cử tri California không đồng ý với các quan điểm khắc nghiệt của ngài Baxter, và Dự luật 6 bị đánh bại hoàn toàn trong các cuộc bỏ phiếu.

Khi AIDS xuất hiện năm 1981, các quan chức y tế khẳng định với công chúng rằng không có gì phải sợ. “AIDS là một bệnh của người đồng tính”, là một câu được lặp đi lặp lại trong giới truyền thông. Đến tận năm 1987, Robert Gallo đã nói với phóng viên David Black của tờ Playboy rằng “Cá nhân tôi không biết một ca nào (ở Mỹ) mà người đàn ông bị nhiễm vi rút (AIDS) từ một người phụ nữ qua giao hợp tình dục”.

Ở châu Phi, nơi AIDS lây nhiễm cho số đàn ông và pụ nữ nhiều như nhau, lời giải thích của Gallo với Black là : “Nó xảy ra, nhưng đó có thể là do những khác biệt về cách thực hiện tình dục, chung chạ bừa bãi hơn hay số trường hợp bệnh hoa liễu lớn hơn”.

Những tuyên truyền về AIDS và các nhận xét phân biệt chủng tộc trong giới truyền thông không hề bị thách thức, nghi ngờ. Ví dụ, những người châu Phi da đen (nhưng không bao giờ là người châu Phi da trắng) bị nghi ngờ là chung chạ bừa bãi. Tương tự,  những người Mỹ tình dục khác giới da trắng không bao giờ bị coi là những người chung chạ bừa bãi. Gallo đã cho Playboy biết đánh giá chuyên môn của mình về triển vọng của AIDS ở những người tính dục khác giới tại Mỹ :”AIDS sẽ không bao giờ trở thành mối nguy hiểm áp đảo đối với công chúng”.

Tại sao AIDS được coi là một căn bệnh riêng của  người đồng tính ở Mỹ ? Lời giải thích của tiến sĩ Strecker là cách duy nhất cắt nghĩa điều đó. Lý do AIDS bắt đầu như một “căn bệnh của người đồng tính” là vì vi rút AIDS được cố ý đưa vào cộng đồng đồng tính trong các thử nghiệm vác-xin viêm gan B.

Khi bệnh dịch lan ra dân chúng “nói chung”, các viên chức chính phủ cố hết sức làm cho nhân dân tin rằng AIDS thoạt tiên là một bệnh của dân đồng tính “có nguy cơ cao” và rằng AIDS không phải là một căn bệnh của người tính dục khác giới. Tình dục của người đồng tính là “nguy cơ cao” nhưng tình dục của người tính dục khác giới thì không bao giờ bị cho là “nguy cơ cao”. Các thống kê chính thức của Trung tâm Kiểm soát bệnh tật được nhào nặn để củng cố cho quan điểm ấy.

Những người lưỡng tính bị AIDS đều được kê khai cùng với những người đàn ông đồng tính. Đàn ông lưỡng tính không được đặt thành loại riêng “lưỡng tính” hay trong cùng một loại “tính dục khác giới/ lưỡng tính”. Những người nghiện ma túy tiêm tĩnh mạch có tính dục khác giới được đưa vào loại đặc biệt “ma túy IV”. Các nhà dịch tễ học thường cho rằng những người dùng ma túy IV là đàn ông có tính dục khác giới bị HIV từ những kim tiêm bẩn - chứ không bao giờ do quan hệ tình dục với phụ nữ nhiễm bệnh.

Vài năm sau khi AIDS bùng phát ở thành phố New York, căn bệnh trở thành nhân tố giết người hàng đầu đối với nam thanh niên đồng tính và nam nữ thanh niên tính dục khác giới ở thành phố này. Vẫn cực kỳ hiếm thấy AIDS ở một người đồng tính nữ, trừ trường hợp liên quan đến ma túy. Một số phụ nữ bị nhiễm bệnh do chồng hoặc người tình có quan hệ chung chạ bừa bãi.

Một thập kỷ sau cuộc thử nghiệm viêm gan, AIDS ngày nay là vấn đề số một về sức khỏe đối với các nam nữ thanh niên Mỹ. AIDS là nguyên nhân chết hàng đầu của đàn ông trong độ tuổi từ 33 đến 45. Nhiều đàn ông chết vì AIDS hơn là chết ở chiến tranh Việt Nam. Tổng số đàn ông chết vì AIDS ở San Francisco bây giờ lớn hơn tổng số đàn ông San Francisco chết trong cả ba cuộc chiến tranh : Chiến tranh thế giới thứ II, Chiến tranh Triều tiên và Chiến tranh Việt Nam.

Năm 1991, Earvin (Magic) Johnson, ngôi sao bóng rổ được mọi người yêu thích, cong khai thừa nhận anh đã bị nhiễm HIV. Anh khẳng định anh là người tính dục khác giới và không bao giờ có quan hệ đồng tính. Lần đầu tiên, nhiều người tính dục kác giới bắt đầu coi AIDS là nghiêm trọng. thanh niên nghĩ :”Nếu nó có thể xảy ra với Magic, nó có thể xảy ra với tôi”.
 

Khoảng cùng thời gian đó, huyền thoại bóng rổ Wilt Chamberlain tiết lộ với công chúng một điều rất ấn tượng rằng anh ta đã ngủ với 20.000 người đàn bà khác nhau. Trong giới đồng tính, không ai biết có bất cứ người nào có thể vượt kỷ lục của Chamberlain. Rõ ràng Chamberlain thoát được lây nhiễm HIV, nhưng năm sau anh ta phải vào bệnh một thời gian ngắn vì tim loạn nhịp.

Không có nơi đâu mà sự kỳ thị lại trắng trợn hơn và độc ác hơn trong quân đội. Tuy đồng tính luyến ái đã được coi là không hợp với đời sống quân ngũ, sự thật vẫn có vô số nam và nữ đồng tính pục vụ đất nước họ một cách hiệu quả và đáng tự hào trong thời bình và trong thời chiến. Mặc dầu vậy, hàng ngàn đàn ông và phụ nữ đồng tính đã bị thải hồi khỏi quân đội vì khuynh hướng tình dục của họ. Trong quá trình bị đuổi ra khỏi quân ngũ, nhiều người đã bị làm thương tổn hay bị giết.

King nghiệm của tôi với quân đội bắt đầu năm 1951, ở tuổi 17, khi tôi đăng ký vào một chương trình của học viện ROTC. Vào tuổi 20, tôi được cử đi Fort Sill, Oklahoma cho một chương trình huấn luyện mùa hè. Được nghỉ phép ba ngày, một nhóm chúng tôi lên một chuyến xe buýt do quân đội bảo trợ đi Monterey, Mexico. Chuyến thăm thành phố bao gồm điểm dừng bắt buộc tại một nà thổ trong khu đèn đỏ khét tiếng.

Tôi bước vào hoạt động tình dục của nhóm tình dục khác giới vào năm 1961 trong khi phục vụ với tư cách một thầy thuốc quân đội trong lực lượng Liên Hiệp Quốc đóng tại vùng phi quân sự ngăn cách Bắc và Nam Triều Tiên. Những kỳ nghỉ phép cuối tuần hiếm hoi tới Xê un với các sĩ quan đồng ngũ bao giờ cũng có nhiều đợt uống rượu, tiếp theo là lùng sục gái điếm, mỗi chúng tôi một người. Không ai, trừ tôi, tỏ ra quan tâm về chuyện giữ gìn sự kín đáo, mà còn ngược lại.

Không thể tránh những cuộc gặp gỡ như vậy ở Triều Tiên sau chiến tranh. Khôg đắm chìm vào những trò tiêu khiển tình dục khi có cơ hội thì bị coi là không đàn ông và không hiểu nổi. Việc các sĩ quan đồng ngũ của tôi đều đã có vợ không làm thay đổi vấn đề. Không ai mong đợi bất kỳ một quân nhân nam bình thường nào trong trắng hay chung thủy. Đồng tính hay tính dục khác giới, người ta đều cho rằng anh ta sẽ thực hiện hành vi tình dục và hưởng khoái lạc. Đó là cung cách diễn ra ở Triều Tiên đầu những năm 1960. Tôi cho rằng nó vẫn như thế hiện nay.

Như có thể dự đoán, tỷ lệ bệnh hoa liễu trong binh lính ở Triều Tiên là rất lớn. Các sĩ quan không ngừng diễn thuyết với binh lính về mức độ nhiễm bệnh hoa liễu không thể chấp nhận được, nhưng binh lính ít khi để ý đến điều đó. họ biết quá rõ các sĩ quan cũng làm như vậy. Sự khác biệt duy nhất là các sĩ quan có đủ tiền để kiếm gái điếm Triều Tiên trông khá hơn và khỏe mạnh hơn. Các sĩ quan cấp cao thường vung tiền để gủ với đàn bà da trắng trong các khu riêng của họ.

Thống kê mức bệnh da liễu trong các sĩ quan không tồn tại. Chẳng bao lâu, tôi đã rõ lý do của nó. Vị trung sĩ chỉ huy đơn vị tôi khuyên tôi không ghi các trường hợp nhiễm bệnh của các sĩ quan. Giang mai hay lậu là chẩn đoán không chấp nhận được trong y bạ của sĩ quan - một y bạ ghi bệnh hoa liễu sẽ làm hỏng cơ hội  thăng cấp của anh ta.

Kinh nghiệm của một sĩ quan quân y ở Triều Tiên đã dạy tôi mọi điều cần biết về sự chính xác của “các thống kê” chính thức của chính phủ, cũng như tính đạo đức giả của luân lý tình dục khác giới trong quân đội.

Bốn thập kỷ sau, năm 1992, một số bí mật tình dục của quân đội đã bị phơi bày ra công luận. Chuyên gia quân đội Jacqueline Ortiz, trong khi phục vụ làm thợ cơ khí trong cuộc chiến tranh Vùng Vịnh đã bị trung sĩ của cô cưỡng bức kê gian. Khi cô đầm đìa nước mắt báo cáo sự việc với các sĩ quan chỉ huy, họ đã bỏ ngoài tai những lời tố cáo của cô.

Sự việc của Ortiz đã được để ý nghiem túc hơn tại một cuộc điều trần ở Thượng viện về lạm dụng tình dục trong quân đội. Trong khi điều trần, người ta tiết lộ rằng có tới 60.000 cựu binh nữ có thể đã bị hiếp dâm hoặc hành hung trong khi còn ở quân ngũ. Người ta kết luận rằng một phụ nữ phục vụ trong quân đội ở vùng Vịnh Péc xích dễ bị quân mình tấn công hơn là bị kẻ thù tấn công.

Trong các sãnh đường bê ngoài buồng của họ tại khách sạn Las Vegas Hilton, ơi diễn ra Hội nghị “Tailhook 91”, các sĩ quan hải quân say rượu hành hung ít nhất hai chục phụ nữ, bao gồm mười bốn nữ sĩ quan hải quân. Các phụ nữ kinh hãi khi những người đàn ông này mò mẫm và sờ soạng họ, và cố cưỡng bức lột quần lót của họ. Không lấy làm lạ là những lời phàn nàn của các nữ sĩ quan đã rơi vào những các tai điếc. Cuối cùng, vụ xì căng đan hải quân được đưa ra ánh sáng và là rung chuyển Washington, dẫn đến sự từ chức của Bộ trưởng Hải quân vào tháng 6 năm 1992.

Khi kể lại câu chuyện trên, tờ Thời báo (số ra ngày 13-7-1992) trích dẫn một nghiên cứu của Lầu Năm Góc cho thấy hai phần ba các nữ quân nhân bị quấy nhiễu tình dục bởi các nam quân nhân. Tờ Thời báo cũng nhắc lại một trường hợp năm 1987 trên một tàu cứu hộ hải quân, thuyền trưởng đã thực hiện hành động tình dục bằng miệng đối với một gái điếm trước sự chứng kiến của thủy thủ đoàn; và một trường hợp khác vào năm 1990, một nữ chuẩn úy hải quân tại học viện Hải quân Mỹ đã bị một nam chuẩn úy hải quân đồng ngũ ép buộc còng tay vào bồn đi tiểu của nam giới.

Tất cả các vụ đó đều mờ nhạt nếu so với thú nhận của Chính phủ Nhật Bản tháng 7 năm 1992 rằng có tới 200.000 phụ nữ các nước Nhật Bản,Trung Quốc, Triều Tiên, Đài Loan, Philippin và Inđônêxia đã được tuyển để phục vụ như những “đàn bà giải trí” trong các nhà chứa của quân đội trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chính phủ Nhật Bản cuối cùng đã tỏ ra hối tiếc vì những đau khổ họ gây ra cho các phụ nữ đó.

Vấn đề đồng tính luyến ái trong quân đội trở thành những tin hàng đầu ngày 8 tháng 7 năm 1992 khi phóng viên truyền hình Barbara Qalters hỏi ứng xử viên Tổng thống Ross Perot rằng liệu ông có cho phép những người đồng tính gia nhập quân đội không. Cộng đồng đồng tính nổi giận khi Perot trả lời :”Tôi không cho đấy là thực tế.”. Mấy tuần sau, Perot cam đoan rằng ông sẽ không tha thứ sự phân biệt đối xử chống những người đồng tính, nhưng từ chối nói rõ quan điểm của ông về việc cấm gia nhập quân đội.

Tướng Colin Powell, Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, đã nhắc lại lý do quân đội đã trục xuất các nam nữ đồng tính : mối quan tâm chủ yếu của Lầu Năm Góc là bảo vệ quyền riêng tư của những người lính, họ có thể cảm thấy không thoải mái khi phục vụ quân ngũ với “những người đồng tính công khai”. Lầu Năm Góc lấy cớ rằng sự có mặt của những người đồng tính trong quân ngũ sẽ có hai cho “đạo đức và kỷ luật” quân đội.

Những lý lẽ không cho các nam nữ đồng tính tham gia lực lượg vũ trang cũng tương tự các lý lẽ trước đây không cho người da đen hòa nhập hoàn toàn với người da trắng trong quân đội. Người ta không hiểu tại sao dân đồng tính có thể bị loại trừ khỏi quân đội dựa trên các cơ sở đạo đức. Làm thế nào mà các quân nhân được huấn luyện kỹ càng nghệ thuật giết chóc lại bị lo lắng bối rối vì các nam nữ đồng tính đòi quyền phục vụ đất nước họ và quyền tình dục như bất cứ ai khác.

Tháng 11 năm 1992, có hơn 242.000 người Mỹ được kê khai là bị AIDS. Khoảng một nửa các trường hợp đó là người da đen hay Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Trong số các thanh thiếu niên chết vì AIDS, 37% là da đen, 19% là Mỹ La Tinh; 100.000 ca đầu tiên mất tám năm để phát triển bệnh, 100.000 ca thứ hai mất hơn hai năm; 7% các ca AIDS gần đây nhất là do tình dục khác giới.

Ở hạt Los Angeles nơi tôi sống, đã ghi được 16.000 ca AIDS, với 11.000 người chết. Chín mươi phần trăm các ca được phân loại là “đồng tính/ lưỡng tính”. Trước đây, trong lịch sử y học, chưa bao giờ có bệnh dịch nào lại được giới hạn lạ lùng trong những người da màu hay dân đồng tính.

Ngày nào đó, nhân dân sẽ nhận ra rằng sự kỳthị, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và khuynh hướng tình dục là gốc rễ của AIDS. Không phải loài khỉ xanh mang HIV đến cho chúng ta. Nguyên nhân là do chính chúng ta và sự ngây thơ của chúng ta về nhiều mặt bản năng giới tính của con người.