Chúng ta đã học được gì và chúng ta sẽ đi về đâu?
Các Website khác - 15/02/2006

Vậy là đã hơn một thập kỷ kể từ khi FDA chấp thuận chất ức chế protein đầu tiên của virus HIV, mở đường cho việc hình thành liệu pháp điều trị kháng virus hoạt tính cao (HAART) - loại thuốc tiên phong trong rất nhiều thuốc cocktail có sẵn ngày nay dùng để điều trị HIV/AIDS.

Bác sĩ Joel E. Gallant đánh giá: "HAART đã cách mạng hoá công cuộc điều trị HIV và biến đổi hoàn toàn cuộc sống của những người nhiễm phải căn bệnh thế kỷ. Trong thực tiễn có thể nói, việc xuấ hiện của HAART là một trong những cuộc cách mạng y học lớn nhất của thế kỷ 20. Bởi lẽ, gần như trong một sớm một chiều chúng ta đã biến một căn bệnh chết người không lối thoát thành một căn bệnh kinh niên có thể kiểm soát được".
Ít thuốc viên hơn, sự phụ thuộc nhiều hơn?

Mặc dù những phiên bản đầu tiên của "cocktail" HAART đã cứu sống rất nhiều bệnh nhân song những hợp chất điều trị đó thường rất khó uống và liên quan tới nhiều phác đồ điều trị phức tạp, nhiều tác dụng phụ và các chất về lâu dài gây độc nghiêm trọng như hyperlipidemia, insulin resistance, và lipodystrophy.

"Mặc dù những phác đồ điều trị ban đầu rất khó uống, phức tạp và độc hại nhưng nó vẫn có tác dụng cứu sống người bệnh – Bác sĩ Gallant giải thích - Từ thời điểm đó, liệu pháp điều trị kết hợp đã trải qua một quá trình biến đổi tuy dần dần song có nhiều đột phá. Trong 10 năm qua, HAART đã trở thành một liệu pháp điều trị đơn giản và tiện dụng hơn, nhất là với những bệnh nhân không kháng thuốc điều trị hoặc với những người bắt đầu liệu pháp điều trị này lần đầu (bảng 1). Các phác đồ điều trị mới cũng bớt độc hại hơn và có ít tác dụng phục hơn, điều này tạo điều kiện cho người bệnh có thể áp dụng phác đồ điều trị lâu dài".

Các phác đồ điều trị thường được sử dụng trong liệu pháp điều trị đầu tiên này nay có thể quy định uống hai viên thuốc mỗi ngày mà không phải kiêng khem trong ăn uống. Loại phác đồ điều trị kháng virus 3 loại thuốc đầu tiên được bào chế trong một viên duy nhất mới được phát triển gần đây và theo bác sĩ Gallant có lẽ sẽ được trình làng trong năm 2006 này.

Ông Gallant lý giải: "Mặc dù việc chuyển tiếp từ hai viên sang một viên thuốc cho liều dùng mỗi ngày dường như chỉ là một bước tiến nhỏ song nó thực sự là một đột phá đáng kể nếu bạn hiểu được những gì mà chúng tôi đã sử dụng trong năm 1996.

Phác đồ điều trị một viên thuốc mỗi ngày không thể ứng dụng cho tất cả mọi người. Với những bệnh nhân đã có tiền sử điều trị trước đó hoặc những người nhiễm phải virus kháng thuốc điều trị chẳng hạn sẽ cần một phác đồ điều trị khác với nhiều thuốc hơn. Còn với những bệnh nhân mà bệnh trạng đã tiến triển nặng hơn đồng thời cũng kháng thuốc mạnh hơn thì cần một số tác nhân mới, kể cả các loại thuốc mới đang được bào chế".

Có rất nhiều các mục tiêu mới thú vị trong liệu pháp điều trị HIV, bao gồm các tác nhân giúp ngăn ngừa virus HIV tấn công tế bào CD4, các thuốc ngăn cản quá trình hoà nhập DNA của virus sao chép và đảo lại vào các DNA của tế bào vật chủ. Đây quả là tin tốt lành với những người đã xuất hiện triệu chứng kháng lại với các tác nhân có sẵn hiện nay.

Mặc dù rất vui mừng với những thành tựu mang tính cách mạng của liệu pháp điều trị HIV/AIDS ngày càng dễ dàng hơn, song bác sĩ Gallant vẫn không giấu được những lo lắng, liệu rằng các thành tựu phát triển đó có khiến đại dịch phát triển ổn định hơn hay không? Ông nói: "Hiện nay vẫn tồn tại tình trạng thờ ơ đáng lo ngại với đại dịch HIV trong nhóm những người có nguy cơ lây nhiễm, đó là một phần do ý nghĩ sai lầm là liệu pháp điều trị kháng virus ngày nay quá phổ biến.

Người ta vẫn chưa hiểu rằng có không ít người bệnh không thể hưởng được các phác đồ điều trị giản đơn đó vì vấn đề kháng thuốc có thể bị nhiễm phải hoặc lây truyền. Có những người phát sinh phản ứng phụ ngay cả với những phác đồ điều trị đơn giản nhất. Những liệu pháp điều trị là rất đắt và không phổ biến toàn cầu, thậm chí với những người có điều kiện dùng thuốc điều trị thì cũng không thể phụ thuộc vào nó suốt đời.

Mặc dù đã có nhiêu tiến bộ trong liệu pháp điều trị kháng virus vẫn rất cần phòng tránh căn bệnh này. Chúng ta biết cách phòng chống nó và chúng ta vẫn không thể quá thoải mái với những nỗ lực phòng chống chỉ vì chúng ta có được những tiến bộ trong liệu pháp điều trị".

Tầm quan trọng của giới chuyên nghiên cứu về HIV

Theo bác sĩ Gallant thì nếu liệu pháp điều trị HIV dễ dàng cho người bệnh bao nhiêu thì càng phức tạp hơn bấy nhiêu với những bác sĩ điều trị cho họ. "Nhiều bác sĩ thiếu kinh nghiệm đã đánh giá thấp độ phức tạp trong việc chăm sóc, điều trị bệnh nhân HIV. Họ có thể cho rằng "tại sao việc kê đơn thuốc hai viên mỗi ngày lại khó khăn đến vậy?".

Tuy nhiên, sự thành thạo cần thiết trong kiểm soát bệnh dịch HIV chỉ được nâng cao khi các giải pháp điều trị được mở rộng. Nó đòi hỏi phải có hiểu biết chi tiết về tình trạng kháng thuốc - kể cả sự hiểu biết về các thử nghiệm sự kháng lại kiểu gen và kiểu hình - độ độc hại của thuốc, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các loại thuốc, đây là những vấn đề phổ biến trong các loại thuốc kháng virus và các tác nhân khác.

Đối với các bác sĩ lâm sàng chuyên chăm sóc bệnh nhân HIV cũng cần có các hệ thống sử dụng đúng chỗ để nâng cao chế độ tuân thủ điều trị, đây là yếu tố dự báo quan trọng nhất của tình trạng phản ứng với liệu pháp chữa.

Bác sĩ Gallant cho rằng, những bệnh nhân nhiễm HIV cần được kiểm soát hoặc đồng kiểm soát bởi các chuyên gia về HIV để có được kết quả điều trị tối ưu nhất. Ông nói: "Các nghiên cứu đã cho thấy, các bệnh nhân được chuyên gia về HIV quản lý thường sống lâu hơn, ít phải nhập viện hơn và tốn ít chi phí chăm sóc hơn những người được quản lý bởi những người khác. Rất thường xuyên chúng ta thấy hiện tượng có những người được quản lý bệnh trạng trong nhiều năm bởi một người không phải chuyên gia về HIV và có những người bệnh chỉ được gửi tới xin lời cố vấn của chuyên gia sau khi đã xuất hiện tình trạng kháng thuốc. Vào những khi đó, chúng ta chẳng còn giúp họ được nhiều nữa. Thời điểm tốt nhất để xin tư vấn của chuyên gia chính là trước khi bắt đầu phác đồ điều trị lần đầu tiên".

Một chuyên gia về HIV không nhất thiết phải là một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm cũng như không phải mọi chuyên gia về bệnh truyền nhiễm đều là một chuyên gia về HIV, bác sĩ Gallant nhấn mạnh thêm. "Yếu tố xác định tính chuyên nghiệp trong nghiên cứu lây nhiễm HIV chính là mức độ kinh nghiệm của người bác sĩ - số bệnh nhân HIV anh ta đã từng theo dõi và việc anh ta giải quyết bình tĩnh ra sao trước sự tấn công ồ ạt của những thông tin mới mẻ".

Biến hoạt động xét nghiệm HIV thành một việc làm hàng ngày

Một trong những vai trò quan trọng nhất của bác sĩ chăm sóc ban đầu chính là công tác xét nghiệm. "Quả là đáng buồn khi thấy các bệnh nhân chỉ được phát hiện khi đã ở giai đoạn nặng mặc dù đã có hệ thống chăm sóc y tế và các manh mối giúp họ biết về tình trạng bệnh của mình bác sĩ Gallant chia sẻ. Công tác xét nghiệm HIV tình nguyện cần được mở rộng hơn và coi là hoạt động bình thường hơn nhiều so với thực tại.

Chúng ta cần bỏ thói quen chỉ tập trung vào các nhóm có nguy cơ lây nhiễm cao và nhớ rằng, bất cứ ai có quan hệ tình dục thì đều có nguy cơ nhiễm HIV. Một hoạt động khác cũng khá quan trọng là công tác phòng chống. Các bác sĩ lâm sàng chăm sóc ban đầu đóng vai trò hết sức quan trọng trong làm chậm lại tốc độ lây nhiễm đại dịch bằng cách đơn giản là nói với người bệnh về cách thức phòng chống HIV. "Tôi ước rằng tôi có thể lạc quan về tương lai sắp tới của đại dịch cũng như tôi đã lạc quan về công tác điều trị. Ông Gallant kết luận.

Đỗ Dương theo http://www.physweekly.com