Hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Các Website khác - 05/12/2005
Qua 20 năm đổi mới, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng sáng tỏ hơn, những nét cơ bản của hệ thống quan điểm lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng bước đầu được hình thành.
1- Về mục tiêu và bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Trong quá trình cách mạng, dù trong hoàn cảnh nào, Ðảng ta luôn kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, vì đó là mục tiêu, lý tưởng của Ðảng và nhân dân ta; đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu khách quan, hợp quy luật của cách mạng Việt Nam.

Tuy nhiên, Ðảng ta cũng nhận thức rằng đây là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn, gian khổ bởi điểm xuất phát của nước ta rất thấp, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, luôn bị các thế lực thù địch phá hoại. Ðặc biệt sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một sự nghiệp mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử, lại diễn ra trong bối cảnh chủ nghĩa xã hội trên thế giới lâm vào khủng hoảng và thoái trào nên lại càng khó khăn.

Ðây là quá trình vừa làm vừa học, vừa làm vừa tổng kết, vừa rút kinh nghiệm, khái quát thành lý luận trên cơ sở lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn của chân lý. Chính trong quá trình đó, Ðảng ta từng bước hình thành những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ngày càng phù hợp hơn, từng bước khắc phục những quan niệm giáo điều, đơn giản, ấu trĩ về chủ nghĩa xã hội.

Chẳng hạn như trong nhận thức trước đây về chủ nghĩa xã hội, vì không hiểu đúng mối quan hệ biện chứng giữa chủ nghĩa tư bản với chủ nghĩa xã hội nên đã đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản theo tinh thần phủ định hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, hoặc hiểu không đúng khái niệm "bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa" nên từ đó không thấy được yêu cầu phải kế thừa những giá trị, những thành tựu mà nhân loại đạt được trong xã hội tư bản chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Trong lĩnh vực kinh tế, do coi kinh tế tập trung bao cấp là đặc trưng của kinh tế xã hội chủ nghĩa nên đã coi nhẹ hoặc phủ nhận sản xuất hàng hóa, quy luật giá trị, có thành kiến với kinh tế thị trường do đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản.

Ðặc biệt trong nhận thức mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đã có nhiều vi phạm quy luật khách quan như cường điệu vai trò của chế độ công hữu ("nhất đại nhì công"), đối lập sở hữu tư nhân với chủ nghĩa xã hội, muốn nhanh chóng xóa bỏ bóc lột, nhấn mạnh một chiều nhiệm vụ cải tạo quan hệ sản xuất mà coi nhẹ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự phát triển xã hội.

Trong lĩnh vực chính trị, do đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản nên đã không thừa nhận tính chất pháp quyền của nhà nước xã hội chủ nghĩa, không thấy đầy đủ yêu cầu, phát huy dân chủ trong xây dựng xã hội mới...

Trong những năm đổi mới, thể hiện tập trung nhận thức của Ðảng ta về chủ nghĩa xã hội là trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Ðại hội VII của Ðảng (năm 1991) thông qua. Cương lĩnh đó đã khái quát những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học thuyết Mác - Lê-nin về chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến những đặc điểm của thời đại.

Từ đó đến nay, Ðảng ta đã có sự bổ sung, phát triển một số điểm trong nhận thức về mục tiêu, bản chất, đặc trưng của chủ nghĩa xã hội nước ta và chắc chắn chúng ta sẽ phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển hơn nữa nhận thức đó.

Ðiều đó cũng là đương nhiên, phản ánh quá trình phát triển của thực tiễn và nhận thức. Tuy nhiên cho đến nay, kế thừa Cương lĩnh năm 1991, qua tổng kết 20 năm đổi mới, có thể khẳng định rằng: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Ðó là xã hội do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, bền vững với một hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc, được phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ, có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Ðảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới"(1).

2- Về nền tảng tư tưởng của Ðảng

Từ khi Ðảng ta ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã được Ðảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện thực tiễn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Ðảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn"(2).

Qua nghiên cứu lý luận và trải nghiệm thực tiễn ở nhiều nước trên thế giới, Người rút ra kết luận rằng ngày nay học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Từ chỗ coi chủ nghĩa Mác - Lê-nin là "cái cốt của Ðảng", "cái gốc của Ðảng", đến Ðại hội II (năm 1951), Ðảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng của Ðảng.

Ðến Ðại hội III (năm 1960), Ðảng khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Ðảng. Ðặc biệt đến Ðại hội VII (năm 1991) Ðảng ta khẳng định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Ðảng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng.

Việc chính thức đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào nền tảng tư tưởng của Ðảng đánh dấu một bước tiến mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận của Ðảng là nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của Ðảng và dân tộc ta.

Việc xác định chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng đòi hỏi phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dùng lập trường (lập trường cách mạng triệt để), quan điểm (hệ quan điểm khoa học), và phương pháp (phương pháp biện chứng duy vật), của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để giải quyết đúng đắn những vấn đề của cách mạng nước ta và thời đại đặt ra.

Ngày nay trong bối cảnh phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, chúng ta phải kiên định và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng, kiên quyết đấu tranh chống lại những luận điểm sai trái, phản động của các thế lực cơ hội chính trị và thù địch muốn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin với "lý do" cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin là "ngoại lai", "ngoại nhập" đã lỗi thời vì nó chỉ thích hợp với nền văn minh cơ khí ở thế kỷ 19 chứ không thích hợp với nền văn minh tin học, với kinh tế tri thức ở thế kỷ 21, v.v... Ðồng thời chúng còn xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ðồng thời phải kiên quyết khắc phục bệnh giáo điều (cả giáo điều cũ và giáo điều mới), đẩy mạnh việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, thường xuyên đổi mới nội dung và phương pháp nghiên cứu, cách dạy và cách học chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh một cách thiết thực, có hiệu quả, gắn với thực tiễn, khắc phục tình trạng chạy theo bằng cấp.

Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi Ðảng ta phải kiên trì và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, giải đáp được những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong bối cảnh mới của thời đại.

3- Về động lực của sự phát triển

Những thành tựu to lớn đạt được trong những năm đổi mới là nhờ Ðảng ta đã biết tạo lập và phát huy một hệ thống động lực phát triển xã hội. Nhờ đó lực lượng sản xuất và con người được giải phóng, các nguồn nội lực được huy động nhiều hơn, kinh tế tăng trưởng tương đối nhanh, xã hội trở nên năng động, linh hoạt hơn, đời sống xã hội trở nên sống động hơn. Trong hệ thống các động lực của đổi mới, trước hết phải kể đến ba động lực quan trọng sau.

- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Ðảng.

Khi sinh thời, khái quát và tổng kết bài học trong lịch sử dân tộc và lịch sử cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

"Ðoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công"

Ý thức sâu sắc bài học trên đây, trong những năm đổi mới, Ðảng ta luôn quan tâm xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức do Ðảng lãnh đạo, xem đây là nguồn sức mạnh và động lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong thời kỳ quá độ, còn nhiều thành phần kinh tế nên còn nhiều giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội cũng như mối quan hệ giữa các dân tộc là quan hệ đoàn kết và hợp tác lâu dài trong nội bộ nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cơ sở khách quan của khối đại đoàn kết toàn dân tộc là sự thống nhất về lợi ích. Lợi ích của giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Trong thời kỳ quá độ tất yếu còn đấu tranh giai cấp, song cuộc đấu tranh này diễn ra trong điều kiện mới với nội dung và hình thức mới mà "nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc"(3).

Với nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp được Ðảng ta quan niệm như vậy thì không những không mâu thuẫn mà trái lại, hoàn toàn thống nhất với yêu cầu xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Yêu cầu này đòi hỏi các nhân tố cấu thành cộng đồng dân tộc (các giai cấp, tầng lớp, tộc người, các tập thể và cá nhân) ý thức rõ lợi ích chung của đất nước và hướng nỗ lực của mình vào thực hiện lợi ích chung; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài; xóa bỏ mọi mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai; chấp nhận những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung.

- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa.

Phát huy dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, của sự nghiệp đổi mới, bởi vì dân chủ thuộc bản chất của chủ nghĩa xã hội, không có dân chủ thì không có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa xã hội phải là chế độ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản như V.I.Lê-nin đã chỉ ra.

Thấm nhuần tư tưởng mác-xít về dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan tâm sâu sắc đến vấn đề dân chủ, vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, dân chủ tức là "dân là chủ", "dân làm chủ". Người chỉ rõ "nước ta là nước dân chủ", nghĩa là "quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân"(4).

Trong 20 năm đổi mới, bên cạnh những thành tựu to lớn trong đổi mới kinh tế - xã hội, chúng ta cũng đạt được những thành tựu quan trọng về phát huy dân chủ của nhân dân. Công cuộc dân chủ hóa xã hội đã phát huy tiềm năng sáng tạo của con người, phát huy các nguồn lực cho phát triển đất nước, tính tích cực, chủ động của nhân dân được tăng lên, sự tham gia của nhân dân vào các quá trình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội... ngày càng được mở rộng và tự giác; quyền dân chủ của nhân dân từng bước được thể chế hóa trong chính sách và pháp luật của Nhà nước. Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai tương đối rộng khắp. Dân chủ trong Ðảng được phát huy.

Hoạt động của Nhà nước từng bước được đổi mới theo hướng ngày càng phản ánh được tiếng nói, nguyện vọng của nhân dân. Báo chí ngày càng phát triển đa dạng, phản ánh được công luận về các vấn đề xã hội bức xúc. Những thành tựu về phát huy dân chủ cho thấy Ðảng ta có khả năng tổ chức, lãnh đạo được việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân để tạo thành động lực mạnh mẽ xây dựng xã hội mới.

Tuy nhiên trong điều kiện một đảng cầm quyền, nguy cơ quan liêu, xa dân, mất dân chủ, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân là rất lớn. Vì vậy Ðảng và Nhà nước cần có những chính sách, biện pháp cụ thể, mạnh mẽ để khắc phục nguy cơ trên, đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội. Có như vậy mới huy động được nguồn lực vật chất và tinh thần trong nhân dân, phát huy hết tiềm lực vào sự nghiệp đổi mới. Cần phát huy vai trò động lực mạnh mẽ của dân chủ, coi trọng cả dân chủ ở cấp trung ương và dân chủ ở cơ sở, cả dân chủ trực tiếp, dân chủ gián tiếp và các hình thức tự quản trong các cộng đồng dân cư ở cơ sở, cả dân chủ trong Ðảng và dân chủ trong xã hội. Không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, thường xuyên đổi mới và chỉnh đốn Ðảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa vững mạnh thể hiện thực sự quyền làm chủ của nhân dân, phát huy vai trò tư vấn, giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, đồng thời coi trọng vai trò của báo chí cách mạng phản ánh tiếng nói của nhân dân, cải tiến sự lãnh đạo và quản lý đối với báo chí. Bằng quyết tâm lớn với những giải pháp toàn diện, cụ thể chúng ta sẽ chứng minh đầy đủ cả trong lý luận và trong thực tiễn rằng một đảng cầm quyền vẫn hoàn toàn có thể bảo đảm được dân chủ cho nhân dân, để bác bỏ quan điểm sai trái cho rằng "một Ðảng cầm quyền là mất dân chủ", rằng "muốn dân chủ phải đa nguyên, đa đảng".

- Kết hợp hài hòa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân, quan tâm lợi ích thiết thân của con người.

C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã sớm nhận rõ vai trò động lực của lợi ích trong hoạt động của con người. Theo các ông, hoạt động của con người chẳng qua là quá trình theo đuổi lợi ích của mình, hoặc lý tưởng sẽ tự làm nhục mình nếu tách rời lợi ích. Một bài học của xây dựng chủ nghĩa xã hội mà đã được Lê-nin rút ra từ thời kỳ chính sách kinh tế mới (NEP) ở nước Nga là phải quan tâm đến lợi ích thiết thân của con người, làm cho mỗi người quan tâm đến lợi ích chính đáng của mình, lấy đó làm động lực trực tiếp và mạnh mẽ nhất thúc đẩy họ hành động, qua đó góp phần thúc đẩy quá trình xây dựng xã hội mới.

Có thể nói thành công của đổi mới là do chúng ta đã quan tâm hơn đến vấn đề lợi ích thiết thân, cụ thể của người lao động, đã tìm ra được những hình thức tổ chức sản xuất và những hình thức phân phối tác động vào lợi ích - khâu nhạy cảm trong hoạt động con người, qua đó kích thích tính sáng tạo năng động, khuyến khích lòng nhiệt tình, hăng hái trong lao động sản xuất và công tác.

Tuy nhiên trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, mặt trái của nó dễ dẫn con người đến chủ nghĩa cá nhân, vụ lợi, ích kỷ, làm thiệt hại cho lợi ích chung của sự phát triển xã hội. Vì vậy phải kết hợp hài hòa giữa lợi ích cá nhân với lợi ích chung, giữa lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân. Cần kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, vị kỷ, coi trọng việc giáo dục đạo đức, giáo dục lý tưởng sống nhất là đối với thế hệ trẻ, bồi dưỡng chủ nghĩa yêu nước, lòng tự hào dân tộc, không cam chịu đói nghèo, tinh thần thi đua xã hội chủ nghĩa v.v...

(Còn nữa)

-----

(1) Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006). Nxb CTQG, HN, 2005, tr.135.

(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 2002, t.10, tr.9.

(3) Văn kiện Ðại hội IX, Nxb CTQG, HN, 2001, tr.86.

(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb CTQG, HN, 1995, t.5, tr.698.

PGS. TS LÊ HỮU NGHĨA
Ủy viên T.Ư Ðảng, Phó Chủ tịch
Thường trực Hội đồng lý luận T.Ư,
Tổng Biên tập tạp chí Cộng sản