Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
Các Website khác - 09/11/2005
Trong các văn kiện của Ðảng, đặc biệt là Nghị quyết Ðại hội Ðảng lần thứ IX đã khẳng định nhiệm vụ "xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng". Ðó chính là sự tiếp tục phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới.
Ngay từ buổi đầu được thành lập và trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, Nhà nước ta đã mang những yếu tố của một nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, gắn bó chặt chẽ và phục vụ lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Nhà nước đã từng bước thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế XHCN.

Thực tiễn đổi mới trong những năm qua đã khẳng định yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Ðảng như một xu thế khách quan, mang tính quy luật của quá trình đi lên CNXH trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở rộng giao lưu và hợp tác với tất cả các nước trên thế giới trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam chính là xây dựng một nhà nước thật sự của dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng với lý tưởng dân chủ, nhân đạo, công bằng, tất cả vì hạnh phúc của nhân dân; Nhà nước được tổ chức và vận hành một cách khoa học, phù hợp với thực tiễn đất nước, tổ chức, hoạt động của nhà nước phải bằng pháp luật, chịu sự điều chỉnh của pháp luật; nhà nước quản lý xã hội bằng một hệ thống pháp luật vì con người; quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất quyền lực, có sự phân công, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, có cơ chế an toàn và hiệu quả ngăn chặn mọi sự lạm quyền, vi phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

I- Các nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam

Trong quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, cho đến nay Nhà nước ta đã ban hành bốn bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ, đó là Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992, trong đó quy định về chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; quy định về tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp thực tiễn các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta.

Từ thực tiễn nêu trên, các nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân ngày càng được định hình, có thể nêu lên một số đặc trưng sau đây:

Một là: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Nội dung này luôn được khẳng định là một trong những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo việc xây dựng nhà nước. Hiến pháp 1946, bản hiến pháp đầu tiên đã quy định tại Ðiều 1: "Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo". Nguyên tắc đó được tiếp tục khẳng định trong các hiến pháp tiếp theo và đến Hiến pháp 1992 được thể hiện toàn diện hơn, sâu sắc hơn: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức" (Ðiều 2).

Khẳng định quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong các Hiến pháp nước ta mà còn gắn với việc thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực thực sự của nhân dân, là tư tưởng chỉ đạo bao quát toàn bộ nội dung của các hiến pháp, được thể hiện cụ thể trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương; của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Hai là: Xác định quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Ðây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước.

"Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp". Ðó là hai mặt của một vấn đề trong tổ chức, xây dựng nhà nước. Quán triệt quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất sẽ tác động trực tiếp đến việc tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp của các cơ cấu thực hiện quyền lực của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho bộ máy nhà nước vận hành đồng bộ, thống nhất và có hiệu lực, hiệu quả. Mặt khác, tăng cường việc phân công, phân nhiệm rành mạch, hợp lý, rõ ràng và chú trọng phối hợp chặt chẽ trên tinh thần "vì dân, do dân" giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chính là điều kiện để phát huy tốt hiệu lực của quyền lực nhà nước thống nhất.

Xuyên suốt các bản hiến pháp của nước ta đều thể hiện rõ quan điểm nêu trên trong việc xây dựng nhà nước. Quốc hội luôn được xác định là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, quyết định những vấn đề cơ bản, quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước.

Vị trí, vai trò của cơ quan tư pháp nước ta mà trung tâm là hệ thống các Tòa án luôn được đề cao. Các nguyên tắc: "khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật"; "Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số"; "Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm" luôn phải được tôn trọng trong hoạt động tư pháp.

Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương được thể hiện qua các hiến pháp với việc hình thành HÐND mà các vị đại biểu HÐND do nhân dân địa phương trực tiếp bầu ra và việc HÐND bầu các thành viên của UBND.

Thực tiễn chứng minh rằng, việc phân công và phối hợp trong thực hiện quyền lực nhà nước ở Việt Nam mấy chục năm qua đã tạo điều kiện để bộ máy nhà nước vận hành thông suốt; đồng thời bảo đảm tăng cường ngày càng có chất lượng hơn cơ chế kiểm tra và tự kiểm tra, thanh tra của hệ thống cơ quan hành chính nhà nước, cơ chế kiểm sát đối với các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát, cơ chế giám sát của Quốc hội, HÐND các cấp đối với các cơ quan nhà nước và cơ chế giám sát thường xuyên của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước.

Ba là: Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí cao nhất trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Pháp luật phải thể hiện đúng đắn ý chí của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Pháp luật phải được chính Nhà nước, cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước và mọi người, mọi tổ chức trong xã hội tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành. Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước ta, đặc biệt Hiến pháp - đạo luật cơ bản đã xác định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật" (Ðiều 12 Hiến pháp 1992). Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật không loại trừ đối với bất cứ ai. Ngay Ðảng Cộng sản Việt Nam, được toàn thể nhân dân Việt Nam thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo đất nước và Hiến pháp xác định: Ðảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thì cũng tại Ðiều 4 của Hiến pháp 1992 khẳng định: Mọi tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Bốn là: Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Ðây là một đặc trưng mà kể từ khi thành lập nước Việt Nam DCCH cho đến nay, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Trong các văn bản pháp luật, các nội dung về quyền con người đều được quy định đầy đủ. Hiến pháp 1992 đã dành trọn một chương (Chương V) với 34 điều quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Sinh thời, Bác Hồ đã viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành" (1).

Như vậy, nguyện vọng thiết tha và mục tiêu cao cả của Ðảng ta và Bác Hồ về giá trị con người đã được chú trọng đề cao trong thực tế, được thể chế hóa thành pháp luật và Nhà nước luôn quan tâm phấn đấu thực hiện.

Năm là: Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Trong gần 20 năm đổi mới, Việt Nam đã ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương, trong đó chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực thương mại, thuế, viện trợ phát triển, ngân hàng... Việt Nam cũng đã là thành viên của nhiều điều ước quốc tế đa phương. Trong việc ký kết các điều ước quốc tế, Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc ký với các nước XHCN trước đây, các nước láng giềng như trước thời kỳ đổi mới mà ngày càng mở rộng, đặc biệt phải kể đến việc Việt Nam là thành viên của nhiều tổ chức tài chính lớn trên thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam tham gia Hiệp hội các nước Ðông-Nam Á (ASEAN) và Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), v.v. Việc "tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp điều kiện của nước ta và bảo đảm thực hiện những cam kết trong quan hệ song phương và đa phương như AFTA, APEC, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến tới gia nhập WTO..." (2) là một trong những chủ trương nhất quán của Ðảng và Nhà nước ta.

Sáu là: Bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước pháp quyền XHCN, sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.

Lịch sử đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước từ thời kỳ đầu của cách mạng Việt Nam cho đến nay đã có một thời kỳ ở nước ta tồn tại nhiều đảng chính trị hoạt động trong đời sống xã hội; tuy nhiên, qua thử thách của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc mấy chục năm vô cùng ác liệt và công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước đầy gay go quyết liệt, nhân dân Việt Nam đã thừa nhận vị trí, vai trò lãnh đạo duy nhất của Ðảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Ðảng được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp, đó là sự khẳng định thành quả đấu tranh cách mạng của nhân dân ta. Hiến pháp 1992 khẳng định vai trò lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; đồng thời cũng quy định rõ các tổ chức của Ðảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Tuy chúng ta có một Ðảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nhưng chúng ta có Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận hoạt động tích cực để đoàn kết rộng rãi và đại diện cho lợi ích hợp pháp của tất cả các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội.

Qua những nội dung trình bày trên đây có thể thấy rằng, trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Ðảng, Nhà nước và nhân dân ta đã tiếp thu được những tinh hoa của văn minh nhân loại - các chế định pháp lý được thừa nhận chung của cộng đồng quốc tế như: tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, sự tôn trọng và bảo vệ các quyền và tự do của con người như là những giá trị xã hội cao quý nhất, sự ngự trị của pháp luật trong các lĩnh vực sinh hoạt của xã hội, tính tối cao của pháp luật trong các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và trong điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, trong việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, chúng ta không chấp nhận "Tam quyền phân lập" gắn với chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập như ở các nước tư sản. Trái lại, ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp dưới sự lãnh đạo của một chính Ðảng duy nhất - Ðảng Cộng sản Việt Nam. Ðây là nét đặc trưng khác biệt giữa Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản; đồng thời cũng là kinh nghiệm vô cùng quý giá mà nhân dân ta đã đúc kết được trong quá trình lịch sử cách mạng Việt Nam.

II- Tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong thời kỳ CNH, HÐH

Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước, việc tiếp tục xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân cần tập trung vào một số việc sau đây:

1- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong điều kiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế, Nhà nước phải luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt các chức năng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách đó; phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh.

2- Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải dựa vào lực lượng nhân dân, phát huy dân chủ XHCN; phải xuất phát từ nguyện vọng và lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân.

3- Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được tổ chức và phân công quyền lực Nhà nước thật sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nhà nước thực hiện ba quyền thống nhất có sự phân công rành mạch, trong đó, đề cao trách nhiệm, tính chủ động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp hợp lý quyền lực nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu quả chủ trương, đường lối, nghị quyết của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ðể xây dựng Nhà nước vững mạnh, cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp; xác định rõ tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của HÐND và UBND các cấp; tiếp tục nghiên cứu làm rõ mô hình tổ chức các cơ quan tư pháp (Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra) cho phù hợp yêu cầu mới; tăng cường vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế. Các cơ quan hành chính nhà nước tiếp tục đổi mới việc quản lý nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, bảo đảm sự bình đẳng và phát huy tính năng động, sáng tạo của tất cả các thành phần kinh tế. Theo đó:

- Quốc hội phải thật sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất; thực hiện chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần được tiếp tục nghiên cứu đổi mới theo hướng tăng cường chất lượng và vị thế của đại biểu Quốc hội, nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; tăng cường số đại biểu Quốc hội chuyên trách đến tỷ lệ hợp lý (khoảng 40% hoặc 50% tổng số đại biểu Quốc hội); tiếp tục đổi mới quy trình xây dựng luật, đổi mới phương thức giám sát, đổi mới việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước trước tiên là cách thức quyết định ngân sách nhà nước.

- Cần tiếp tục nâng cao hiệu lực hoạt động của Chính phủ, thật sự là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của đất nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xác định rõ hơn trách nhiệm chung của Chính phủ trong quản lý đất nước và của từng bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ trong việc quản lý ngành, lĩnh vực phụ trách; cải tiến việc phân định, phân cấp trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính quyền theo hướng phân cấp mạnh hơn nữa cho địa phương, kết hợp tốt việc quản lý theo ngành và theo lãnh thổ. Chính phủ khẩn trương hoàn thiện hợp lý cơ cấu tổ chức bộ máy của mình theo hướng Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; từng bước sắp xếp, tổ chức lại các bộ, ngành ở trung ương, bảo đảm tinh gọn, hợp lý và được hiện đại hóa.

Tiếp tục quán triệt chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước một cách sâu rộng, toàn diện, đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Chú trọng cải cách thể chế hành chính; cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa các thủ tục trong các lĩnh vực có tác động trực tiếp tới đời sống và sản xuất kinh doanh của nhân dân; loại bỏ những khâu xin phép, xét duyệt không cần thiết; công khai các quy định, thủ tục hành chính; nâng cao chất lượng giải quyết các khiếu kiện của nhân dân; chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của hệ thống hành chính; cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức và đào tạo, bồi dưỡng theo yêu cầu chuyên nghiệp hóa, nâng cao chất lượng cả về phẩm chất và năng lực, kiên quyết khắc phục mọi biểu hiện quan liêu, tham nhũng, thoái hóa, biến chất và các tiêu cực khác trong hệ thống hành chính. Có những giải pháp đồng bộ để khắc phục cho được hiện tượng thiếu trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức.

- Xác định HÐND và UBND trong một thể thống nhất của chính quyền địa phương. HÐND là cơ quan đại biểu đại diện cho nhân dân địa phương, hoạt động mang tính tự quản, thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật. UBND là cơ quan thường trực của HÐND và là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.

- Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động tư pháp để xây dựng một nền tư pháp Việt Nam vững mạnh, minh bạch, bảo đảm công lý, công bằng, dân chủ, tận tụy phục vụ nhân dân; phải lấy việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án làm trung tâm của cải cách tư pháp.

Thực hiện việc tổ chức tòa án theo cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm); không tổ chức tòa án gắn với đơn vị hành chính; xây dựng hệ thống Tòa án theo hướng: Tòa án sơ thẩm khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Tòa án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm, Tòa thượng thẩm được tổ chức theo khu vực (nhiều tỉnh, thành phố) để xét xử phúc thẩm các vụ án mà Tòa án cấp tỉnh đã xét xử sơ thẩm mà có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ xét xử các vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và làm nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các tòa án áp dụng thống nhất pháp luật và ban hành án lệ.

Viện kiểm sát thực hiện chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp cần được tổ chức phù hợp hệ thống tổ chức của Tòa án. Nghiên cứu thành lập Viện Công tố thuộc Chính phủ và tiến tới thực hiện cơ chế: cơ quan công tố chỉ đạo, chỉ huy điều tra.

Tiếp tục tăng cường về chất lượng và số lượng đội ngũ điều tra viên; nghiên cứu tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối, có thể thành hệ thống cơ quan độc lập thuộc Chính phủ hoặc thuộc hệ thống cơ quan công tố. Ðổi mới công tác thi hành án theo hướng tập trung thống nhất quản lý vào một đầu mối.

Xây dựng cơ chế bảo hiến hữu hiệu. Nghiên cứu có thể thành lập Tòa án Hiến pháp (hoặc Ủy ban bảo hiến) với chức năng bảo vệ Hiến pháp bằng thẩm quyền xét xử để ra phán quyết về sự vi phạm Hiến pháp của các văn bản quy phạm pháp luật, xét xử các quyết định, hành vi vi hiến của cơ quan và cá nhân có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước và làm nhiệm vụ giải thích Hiến pháp, luật (trong điều kiện còn ban hành pháp lệnh thì giải thích pháp lệnh).

4- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng việc Ðảng định hướng về tổ chức bộ máy nhà nước; lựa chọn, giới thiệu cán bộ để giữ các vị trí chủ chốt trong bộ máy nhà nước; lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa chủ trương, nghị quyết của Ðảng thành pháp luật; tăng cường quản lý và kiểm tra tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng, vừa phát huy được tính chủ động, năng động và tự chịu trách nhiệm của những người được giao nhiệm vụ trong các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Qua trình bày ở trên, có thể thấy rằng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền XHCN là một quá trình tương đối lâu dài với những bước đi vững chắc gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ XHCN và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.

-----------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t.4, tr.161.
(2) Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.199.

NGUYỄN VĂN YỂU
Uỷ viên T.Ư Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội