Cần hành động trước khi quá muộn
Các Website khác - 19/04/2006

Việt Nam chưa có quy định nào chống lại việc nam giới có quan hệ tình dục với nam giới. Tuy nhiên, việc dự phòng cho họ lâu nay hầu như bị lãng quên hoặc chỉ được nhắc tới trong vài nghiên cứu gần đây. Bởi vì lý do chủ yếu có lẽ ít ai công nhận sự tồn tại của họ và những nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm nam quan hệ tình dục với nam này.

 

Dựa trên tống quan của các bài viết, báo cáo nghiên cứu hành vi, tỷ lệ mắc HIV và nghiên cứu định tính xã hội vào những năm 1990, 2000, chúng tôi thấy có bằng chứng cho rằng, tình dục đồng giới nam có hầu hết ở mọi nơi. Ở một số nước châu Á, tỷ lệ này dao động từ 3% đến 9% trong độ tuổi trưởng thành, Việt Nam không phải là ngoại lệ. Cụm từ “Men who have sex with men” (MSM) du nhập vào Việt Nam từ những năm 1990 cùng với việc phát hiện dịch HIV. Cụm từ này nhằm chỉ hành vi chứ không chỉ đặc tính. Có thể dịch thô là “nam quan hệ tình dục với nam”, mô tả tất cả những người tham gia vào tình dục đồng giới nam, bất kể do hoàn cảnh, sở thích hay đặc tính tình dục. Chúng ta quen gọi họ là “đồng cô” (thường dùng ở phía Bắc), “đồng bống” (thường dùng ở phía Nam), dụng ý chỉ những người nam mặc quần áo nữ hoặc thể hiện họ như phụ nữ.

 

MSM ở Việt Nam đa dạng về đặc tính tình dục, bao gồm 3 nhóm: “Bóng lộ” là nam mặc quần áo nữ và tự thể hiện mình là nữ. “Bóng kín” là nam mặc quần áo nam và không thể xác định được họ là người quan hệ tình dục đồng giới. Nam “ẩn” quan hệ tình dục lưỡng giới cả nam và nữ, quan hệ tình dục với nữ có thể do hấp dẫn với nữ hoặc vì muốn giữ vẻ bên ngoài là người đàn ông tình dục khác giới.

 

Ở Việt Nam, chưa có nghiên cứu đánh giá tỷ lệ MSM, nhưng dựa vào các nghiên cứu của một số nước trong khu vực, tỷ lệ ước tính dao động từ 3% đến 8%, ở độ tuổi 15-49. Dựa trên tỷ lệ này, ước tính thô tại một số tỉnh, đặc biệt là một số tỉnh đã có một số hoạt động can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV trong nhóm MSM, số lượng MSM là không nhỏ, có thể lên tới vài trăm ngàn.

 

Nguy cơ lây nhiễm HIV là có thực trong nhóm MSM. 2 nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM) đã đưa ra tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm MSM là 6% đến 8%, viêm gam B là 27%, Giang mai 7%.

 

Đa số MSM có hành vi nguy cơ cao, đó là quan hệ tình dục qua hậu môn không sử dụng bao cao su hoặc sử dụng bao cao su không thường xuyên. Năm 2001, một nghiên cứu ở 219MSM tại TP.HCM, thì có tới 78% quan hệ tình dục qua hậu môn không bảo vệ với bạn tình nam bất chợt trong năm qua. Năm 2004, bằng phương pháp nghiên cứu “quả bóng tuyết” ở 600MSM, thì có 43% (người nhận) và 51% (người cho) quan hệ tình dục qua hậu môn không bảo vệ với bạn tình nam bất chợt tháng qua.

 

MSM tham gia mại dâm (cả mua lẫn bán) là phổ biến (53%-65%) và có ít nhất 1/3 đến 1/5 MSM vừa có quan hệ tình dục với mại dâm nam, vừa với mại dâm nữ. Nhưng một điểm cần lưu ý là quan hệ tình dục (QHTD) qua hậu môn với mại dâm nam thì tỷ lệ cao hơn rất nhiều so với mại dâm nữ.

 

Một câu hỏi được đặt ra là tại sao MSM lại có nguy cơ lây nhiễm HIV qua đường tình dục? Để trả lời cho câu hỏi này, Ủy ban phòng, chống AIDS TP.HCM và Tổ chức sức khỏe gia đình thế giới (FHI) đã tiến hành nghiên cứu định tính xã hội học tại TP.HCM. Qua đó khẳng định rằng có rất nhiều yếu tố dẫn đến nguy cơ lây nhiễm HIV trong nhóm MSM.

 

Thiếu hiểu biết và nhận thức sai lầm về nguy cơ và cách dự phòng. Họ cho rằng, QHTD đồng tính không có nguy cơ, trừ khi bạn tình của họ có sử dụng ma túy hoặc đã từng quan hệ với gái mại dâm. Nếu chỉ QHTD với những người như họ thì không có nguy cơ. Người ta cũng biết QHTD qua hậu môn là có nguy cơ lây nhiễm, nhưng nếu xuất tinh ra ngoài sẽ tránh được lây nhiễm HIV.

 

Còn gặp nhiều rào cản về sử dụng bao cao su. Họ cho rằng, dùng bao cao su giảm khoái cảm, cỡ to, mùi khó chịu, không có sẵn khi cần, ngại mua và mang sẵn trong túi, không dám đề nghị bạn tình sử dụng…

 

Chỉ dùng chất bôi trơn riêng MSM dùng riêng hoặc dùng bao cao su vối nhiều loại chất bôi trơn không hòa tan trong nước như: Kem dưỡng da, sữa tắm, Vaselin, pho-mát, dầu ăn… đều là những chất không có tác dụng phòng lây nhiễm HIV, MSM lại rất ngại mua chất bôi trơn tại các nhà thuốc. Sản phẩm hiện có ở dạng chai và tuýp, không tiện cho sử dụng và mang theo người.

 

Việc MSM đang thiếu tiếp cận với các dịch vụ và phương pháp dự phòng thích hợp là do bị kỳ thị và phân biệt đối xử, đặc biệt là ở “bóng lộ”. Vì vậy, MSM chủ yếu sử dụng các dịch vụ y tế tư nhân cho điều trị bệnh lây truyền qua đường tình dục.

 

Bác sĩ Vũ Ngọc Bảo