Về định hướng Xã hội Chủ nghĩa trong xây dựng đất nước ta hiện nay
Các Website khác - 04/11/2005
Theo Nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành T.Ư Ðảng Đỗ Mười, ngày nay, có không ít người dao động, phai nhạt lý tưởng cách mạng, với nhiều dạng biểu hiện khác nhau: có người ngượng ngùng khi nói "chủ nghĩa xã hội" hoặc khi nói "định hướng xã hội chủ nghĩa; có người nói một đằng làm một nẻo; thậm chí có người biện hộ, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản, trong khi phản bác, bôi nhọ và gieo rắc nghi ngờ về chủ nghĩa xã hội... Nguyên nhân dẫn đến sự dao động này có nhiều và rất phức tạp.
Ðổi mới là một sự nghiệp cách mạng vẻ vang, đã giúp Ðảng ta, nhân dân ta, đất nước ta, xã hội ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, có bước trưởng thành và phát triển mạnh mẽ. Kể từ đổi mới từng phần cách đây trên 25 năm, rồi từ đổi mới toàn diện gần 20 năm nay, chúng ta đã thu được những kinh nghiệm vô cùng quý báu, một mặt đổi mới là lẽ sống còn của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mặt khác đổi mới đúng đắn mới bảo vệ và phát triển được sự nghiệp xã hội chủ nghĩa đó.

Phải nói, với bản lĩnh và truyền thống cách mạng vững chắc, kinh nghiệm đấu tranh dày dạn, nhạy cảm chính trị sâu sắc, ngay những năm đầu của công cuộc đổi mới, Ðảng ta rất sớm chỉ rõ đổi mới phải có nguyên tắc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương (khóa VI) tháng 3-1989 về "kiểm điểm hai năm thực hiện Nghị quyết Ðại hội VI..." ghi rõ đổi mới phải quán triệt những nguyên tắc cơ bản, trong đó có nguyên tắc được nêu lên hàng đầu là giữ vững mục tiêu, lý tưởng xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trải qua 5 năm đầu tiên thực hiện đường lối đổi mới, tháng 6-1991 Ðại hội toàn quốc lần thứ VII của Ðảng đã "khẳng định con đường chúng ta đang đi là đúng", và đã sáng suốt, kịp thời vạch ra "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội". Từ thực tiễn cách mạng, Cương lĩnh đã rút ra những bài học lớn mà bài học số một là "Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội". Cương lĩnh đã nhấn mạnh "Ðó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta... Toàn Ðảng, toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minhđã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau".

Tuy nhiên, nhìn thẳng vào sự thật, từ ngày Liên Xô tan vỡ, chế độ xã hội chủ nghĩa ở đó sụp đổ, có một bộ phận trong Ðảng và trong xã hội ta đã dao động, thiếu kiên định cách mạng, thậm chí phủ nhận con đường cách mạng mà Ðảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn và dày công vun đắp trên 70 năm qua. Cũng phải thừa nhận rằng trong mỗi thời kỳ cách mạng trước đều lác đác có cán bộ, đảng viên dao động, thậm chí có cả sự phản bội, đầu hàng, song bao giờ họ cũng bị lịch sử gạt lại phía sau, lịch sử vĩ đại của Ðảng và dân tộc vẫn luôn luôn tiến lên phía trước. Tuy nhiên, ngày nay tình hình nghiêm trọng hơn, không thể xem thường, những người dao động, phai nhạt lý tưởng cách mạng không phải là ít, với nhiều dạng biểu hiện khác nhau: có người ngượng ngùng khi nói "chủ nghĩa xã hội" hoặc khi nói "định hướng xã hội chủ nghĩa; có người nói một đằng làm một nẻo, nói hướng này, nhưng làm hướng khác, miệng nói chủ nghĩa xã hội nhưng giải pháp thì lại xa dần mục tiêu xã hội chủ nghĩa; thậm chí có người biện hộ, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản, trong khi phản bác, bôi nhọ và gieo rắc nghi ngờ về chủ nghĩa xã hội... Nguyên nhân dẫn đến sự dao động này có nhiều và rất phức tạp. Một phần vì nhận thức quá nông cạn về thời đại, nhận thức quá sơ sài về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ nghĩa xã hội, nhận thức mơ hồ về sự kiện Liên Xô tan vỡ và chủ nghĩa xã hội thế giới tạm thời thoái trào. Trong khi đó, do sự tác động phức tạp của "kinh tế thị trường" của "toàn cầu hóa", diễn biến tình hình thế giới lại quá nhanh, một số vấn đề lý luận chưa được làm sáng tỏ, đã ảnh hưởng đến nhận thức và niềm tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân ta. Phần khác, có sự tác động vô cùng xảo quyệt, thâm độc, quyết liệt của các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội, trong đó có sự tác động về tư tưởng, lý luận gắn liền với sức mạnh của đồng đô-la.

Cần bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt nhìn nhận đúng đắn đối với chủ nghĩa xã hội hiện thực đã từng tồn tại ở Liên Xô với cả thành công và vấp váp của nó cũng như đối với sự đổ vỡ của Liên Xô trong chốc lát, thì mới góp phần củng cố lý tưởng xã hội chủ nghĩa của chúng ta.

Liên Xô tồn tại 70 năm, đã từng nêu gương sáng về chế độ xã hội của nhân dân lao động, đã từng là thành trì của hòa bình thế giới, là chỗ dựa vững chắc và đáng tin cậy của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cùng nhân loại tiến bộ. Chính vì thế mà sự kiện Liên Xô tan rã, chế độ xã hội chủ nghĩa ở đó sụp đổ là nỗi đau đớn còn kéo dài và là một tổn thất vô cùng lớn lao của phong trào hòa bình và cách mạng thế giới, trong khi các lực lượng hiếu chiến và thù địch chủ nghĩa xã hội lại vô cùng hí hửng và vui mừng khôn xiết.

Cuối những năm 80 của thế kỷ 20, xã hội Liên Xô rối loạn về tư tưởng và tổ chức, trước hết và trực tiếp là do thực thi một đường lối cải tổ sai lầm. Lúc đầu họ cũng nói cải tổ vì mục tiêu chủ nghĩa xã hội, cải tổ để có chủ nghĩa xã hội tốt hơn, đầy đủ hơn, nhưng việc làm thì lại xa dần, thậm chí phản lại mục tiêu đó. Không phải là sửa chữa khuyết điểm mà là họ đã "nã pháo" vào những nền tảng tốt đẹp đã từng tạo nên thành tựu và chiến công của chế độ xô-viết, kích thích những rối loạn về tư tưởng và tổ chức trong Ðảng Cộng sản Liên Xô và trong xã hội Liên Xô. Sự rối loạn xã hội đã làm mất lòng tin ngay trong hàng ngũ Ðảng, trong giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Và, khi có sự cố thì không ai đứng ra bảo vệ Ðảng, bảo vệ chế độ. Liên Xô và Ðảng Cộng sản Liên Xô đã tan vỡ trong chốc lát. Ðó là một thảm kịch. Ngày nay, sau 15 năm kể từ khi Liên Xô tan vỡ, càng có nhiều bằng chứng cho thấy việc thực thi một đường lối cải tổ sai lầm không tách rời sự tác động vô cùng nham hiểm của các thế lực quốc tế thù địch chủ nghĩa xã hội, thù địch Liên Xô. Những bằng chứng ấy trước hết xuất phát từ cửa miệng một số chính khách và các học giả tư sản, các cơ quan tình báo và các cơ quan quyền lực của các thế lực thù địch. Các thế lực thù địch chủ nghĩa xã hội đã dày công tạo dựng, cổ vũ, kích động cuồng nhiệt cho việc thực thi đường lối cải tổ sai lầm bằng cả thủ đoạn chính trị, tinh thần, tư tưởng, lý luận, tổ chức và sức mạnh tài chính...

Như vậy, thì việc Liên Xô tan vỡ không mảy may xuất phát từ bản chất của chủ nghĩa xã hội, do đó không mảy may biện minh cho việc từ bỏ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, cho việc chuyển hướng, đổi mầu chế độ, cho sự tồn tại vĩnh hằng của chủ nghĩa tư bản.

Gần đây lại có cách nói mơ hồ rằng "chủ nghĩa xã hội là cái gì chưa rõ" và "mọi điều về chủ nghĩa xã hội đều chưa sáng tỏ", v.v... Ðó là cách nói, cách nghĩ không đúng, thể hiện động cơ và lập trường chính trị muốn phủ nhận định hướng xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta hiện nay, trước hết trong đường lối và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Cách nói, cách nghĩ ấy còn là thiếu tôn trọng đối với bao thế hệ cha anh, đồng chí và đồng bào đã chiến đấu hy sinh theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta không phủ nhận rằng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô có một số nhược điểm như hình thức cụ thể của chế độ công hữu chưa đa dạng, chưa làm cho người lao động thật gắn bó với chế độ công hữu, hình thức tổ chức quản lý kinh tế chưa năng động, hiệu quả chưa cao, chưa coi trọng đúng mức quan hệ hàng hóa - tiền tệ, cơ chế thị trường, chưa có những hình thức sinh hoạt dân chủ phong phú thực hiện đầy đủ quyền lực của nhân dân trong quản lý xã hội, quản lý nhà nước... do đó từ cuối thập niên 70 thế kỷ trước đã có biểu hiện suy yếu động lực xây dựng đất nước. Tuy nhiên, nhìn tổng thể và cả thời gian dài thì càng không thể phủ nhận những thành tựu vĩ đại, những ưu việt nổi trội của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô. Ở đó đã xóa bỏ đói nghèo, đã khép dần khoảng cách thu nhập và đời sống giữa các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các vùng, miền của đất nước; đã nâng cao vượt bậc trình độ thể lực và trí tuệ của nhân dân, đã có cuộc sống tinh thần văn hóa vô cùng tốt đẹp của xã hội xô-viết; đã đưa xã hội từ trình độ kinh tế trung bình lên một siêu cường quốc, lớn mạnh cả về kinh tế, khoa học - kỹ thuật và quân sự. Chính chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô đã tạo nên đối trọng đối với chủ nghĩa tư bản thế giới, làm cho các nước tư bản phát triển nhất đã phải tiếp thu một số mặt của xã hội xô-viết để tự điều chỉnh nhằm kéo dài sự sống.

Như thế, với một thế giới quan khoa học, một phương pháp xem xét đúng đắn thì xã hội xô-viết được thử nghiệm hơn 70 năm, cả thành công và vấp váp, cả thành tựu và khuyết điểm, chúng ta vẫn có thể nhận biết chủ nghĩa xã hội là gì, chủ nghĩa xã hội là thế nào, vẫn có thể sáng tỏ về chủ nghĩa xã hội. Hơn nữa nước ta cũng đã tự mình trải qua thử nghiệm mấy chục năm, cả thành công và sai lầm đều giúp Ðảng và nhân dân ta nhận biết đúng đắn hơn những nét cơ bản về chủ nghĩa xã hội. Từ kinh nghiệm thế giới và trong nước, từ học thuyết Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta có thể nhận biết những nét cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa, từ lực lượng sản xuất cho đến quan hệ sản xuất, từ hạ tầng cơ sở cho đến thượng tầng kiến trúc. Cương lĩnh xây dựng đất nước của Ðảng và nhân dân ta đã dựa trên những cơ sở đó để chỉ ra rằng "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: do nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới". Ðấy là chủ nghĩa xã hội khi đã được xây dựng xong, từ nay đến đó nước ta còn phải trải qua nhiều năm của thời kỳ quá độ. Trong thời kỳ quá độ có mặt được hình thành và phát triển sớm, nhanh, có mặt được hình thành và phát triển dần dà từng bước một, làm cho bộ mặt của chủ nghĩa xã hội bộc lộ dần dần cho đến khi đầy đủ, tất cả đều không phải là tự phát, mà là quá trình tự giác, là quá trình xây dựng, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi nói định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là đất nước, xã hội hình thành và phát triển dần dần các mặt của chủ nghĩa xã hội cho đến khi chủ nghĩa xã hội được hình thành đầy đủ. Còn cách hiểu định hướng xã hội chủ nghĩa với dụng ý gác lại chủ nghĩa xã hội, coi chủ nghĩa xã hội là tương lai xa tắp, là cách hiểu rất sai lầm, hoàn toàn trái với đường lối, quan điểm của Ðảng ta.

Một chủ nghĩa xã hội thực tế, đầy đủ là phải có sự chín muồi về phương diện kinh tế, có nghĩa phải có cơ sở vật chất - kỹ thuật với trình độ xã hội hóa cao, tạo nên năng suất lao động cao, làm cơ sở để cải thiện và nâng cao đời sống toàn xã hội. Cho nên từ trước đến nay Ðảng và nhân dân ta đã nhận thức được yêu cầu trọng đại công nghiệp hóa nước nhà (ngày nay nói công nghiệp hóa, hiện đại hóa). Ðiều đó cũng nói lên rằng chủ nghĩa xã hội ra đời là sự kế thừa chủ nghĩa tư bản. Song chủ nghĩa xã hội phải là chế độ xã hội phát triển cao hơn chủ nghĩa tư bản, một sự biến đổi về chất mà những đặc trưng cơ bản nhất vừa phân biệt chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, vừa thể hiện trình độ cao hơn chủ nghĩa tư bản là ở chỗ nhân dân lao động làm chủ và chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu. Không thể xóa nhòa ranh giới phân biệt đó của chủ nghĩa xã hội so với chủ nghĩa tư bản.

Trước hết nói về chế độ nhân dân lao động làm chủ, về mô hình xã hội mà nhân dân lao động làm chủ. Về thực chất, ít nhất ở giai đoạn hiện nay, đó cũng là chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa, một chế độ dân chủ của đa số, quyết định và tổ chức hành động theo nguyên tắc tập trung dân chủ kết hợp với hiệp thương dân chủ, thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ qua đại biểu, dưới sự lãnh đạo của Ðảng ta. Chúng ta tổ chức thực hiện dân chủ ở cơ sở, ở các cấp và trên quy mô toàn quốc, tổ chức thực hiện dân chủ từ chính trị đến kinh tế, từ văn hóa đến xã hội... Chế độ nhân dân lao động làm chủ được hoàn thiện dần dần tùy theo đà phát triển của kinh tế và nâng cao dân trí, ban hành luật pháp và xây dựng lối sống...

Nhân dân lao động làm chủ trước hết và chủ yếu bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước. Mô hình Nhà nước mà chúng ta xây dựng là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, một Nhà nước mà mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Ðảng lãnh đạo Nhà nước cũng nhằm một mục đích duy nhất là tổ chức nhân dân làm chủ, đảm bảo Nhà nước hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp của các cơ quan quyền lực Nhà nước của nước ta không phải là đối lập mà là sự phân công, phối hợp, thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, vì quyền lực và lợi ích của nhân dân. Nhân dân thông qua đại biểu Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp, thông qua Mặt trận Tổ quốc để giám sát tất cả các cơ quan Nhà nước, các viên chức và tất cả đảng viên của Ðảng, trước hết trên lĩnh vực thực thi chính sách, pháp luật và đạo đức, lối sống. Ðảng Cộng sản Việt Nam là Ðảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và toàn xã hội - như Ðiều 4 của Hiến pháp quy định. Ðảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là mô hình chính trị, được xây dựng và hoàn thiện dần ở nước ta, tuy rằng về hình thức và cơ chế cụ thể còn phải tìm tòi nhiều hơn nữa, còn phải thử nghiệm và tổng kết để làm sáng tỏ nhiều hơn nữa.

Chế độ nhân dân lao động làm chủ thoạt tiên xuất phát từ thượng tầng kiến trúc chính trị, song chỉ được củng cố và phát triển trên cơ sở chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới chúng ta đã khắc phục tình trạng nôn nóng xây dựng chế độ công hữu vượt xa trình độ lực lượng sản xuất xã hội trước đây. Song, không có nghĩa là cuộc rút lui không hạn chế, là từ bỏ chế độ công hữu, mà vấn đề đặt ra là điều chỉnh hợp lý về quan hệ sản xuất, xây dựng chế độ công hữu từng bước phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất và nhằm mục đích phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân. Một khi lực lượng sản xuất không được giải phóng, sản xuất không phát triển, thì lợi ích, quyền và trách nhiệm làm chủ thiếu nội dung kinh tế, làm yếu động lực phát triển. Tuy nhiên, cần nhận thức rằng định hướng xã hội chủ nghĩa thì quan trọng bậc nhất vẫn là xây dựng, củng cố chế độ công hữu. Ðây là dấu hiệu hàng đầu đặc trưng cho chủ nghĩa xã hội, phân biệt với chủ nghĩa tư bản, dĩ nhiên xây dựng chế độ công hữu là công việc phải làm kéo dài nhiều năm, kéo dài nhưng không có nghĩa là không làm. Và, điều khó khăn nhất vẫn là tìm kiếm những hình thức cụ thể của chế độ công hữu, trong từng bước đi, theo đó phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất, tạo được động lực mạnh mẽ phát triển kinh tế.

Thực tiễn 20 năm đổi mới đã sáng tỏ rằng trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội thì có thể và cần phải xác lập nền kinh tế đa sở hữu, trong đó sở hữu về đất đai, rừng, biển và toàn bộ tài nguyên dưới chế độ ta đều là sở hữu toàn dân, chỉ riêng việc đó đã làm cho công hữu là bộ phận sở hữu quyết định nhất, và dĩ nhiên là tất cả các loại hình sở hữu đều được pháp luật bảo hộ. Xét về thực tiễn cũng như về nhận thức, nhân dân thường cảm nhận vấn đề sở hữu qua biểu hiện cụ thể của nó ở các thành phần kinh tế. Nói sở hữu là nói lợi ích sâu xa nhất, nhưng nói thành phần kinh tế là nói lợi ích cụ thể, gần gũi, thiết thực nhất. Các chính sách cụ thể cũng qua các thành phần kinh tế để tác động tới các loại hình sở hữu. Nói thành phần kinh tế không phải là nói một cái gì xấu. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, đây là một trong những vấn đề được nói tới nhiều nhất và cởi mở nhất, chứ không phải là vấn đề phải kiêng kỵ, tránh né. Thành phần kinh tế là khái niệm và thực thể được hình thành và tồn tại khách quan trong nền kinh tế. Không thể dùng phương pháp hành chính hay tư tưởng để xóa bỏ một thành phần kinh tế một khi nó còn cơ sở tồn tại của nó, khi nó còn sức sống. Thành phần kinh tế là biểu hiện sống động của sở hữu, có chủ sở hữu, có các công nghệ và tư liệu sản xuất, có người và hoạt động kinh doanh, có sản phẩm, có thu nhập và đời sống, có quan hệ với Nhà nước và xã hội... Nói thành phần kinh tế thì mới đòi hỏi chính sách rất cụ thể, tỉ mỉ của Nhà nước chứ không chỉ dừng lại ở những quy định chung của Hiến pháp về chế độ sở hữu.

Bác Hồ đã từng phác thảo mô hình sở hữu và các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta cùng chính sách, thái độ đối với chúng. Bác dạy chúng ta: "Trong nước ta hiện nay có những hình thức sở hữu chính về tư liệu sản xuất như sau: sở hữu của Nhà nước tức là của toàn dân; sở hữu của hợp tác xã tức là sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; một ít tư liệu sản xuất thuộc sở hữu của nhà tư bản"(1). Bác Hồ đã chỉ dẫn rất cụ thể rằng:

"Kinh tế quốc doanh là hình thức sở hữu của toàn dân, nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân và Nhà nước phải đảm bảo cho nó phát triển ưu tiên.

Kinh tế hợp tác xã là hình thức sở hữu tập thể của nhân dân lao động, Nhà nước đặc biệt khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ cho nó phát triển.

Ðối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện.

Ðối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước"(2).

Về sau, khi miền bắc triển khai sâu vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, dưới sự chỉ dẫn của Bác Hồ và Ðảng ta, trong thực tiễn đã hình thành một hình thức sở hữu hỗn hợp với thành phần kinh tế cụ thể là công tư hợp doanh, là một hình thức cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã từng nói đến. Bác Hồ cũng đã từng nói về thành phần tư bản nhà nước ở nước ta(3).

Tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện mới, cụ thể của nước ta, các Ðại hội VI, VII, VIII, IX và Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ của Ðảng đều khẳng định xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần và chỉ ra những thành phần kinh tế ngày càng cụ thể và ngày càng phong phú thêm. Cho đến nay, đại thể nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta bao gồm: kinh tế nhà nước; kinh tế tập thể (của người lao động); kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước. Trên tinh thần cụ thể, đa dạng, phong phú, Ðại hội IX của Ðảng đã chỉ rõ thêm kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, để có chính sách càng cụ thể, thích hợp càng tốt. Tất cả các vấn đề về thành phần kinh tế như thế được các Ðại hội Ðảng nêu ra suốt từ ngày tiến hành công cuộc đổi mới đến nay vừa là thành tựu của thực tiễn vừa là thành tựu của nhận thức lý luận, nay phủ nhận khái niệm thành phần kinh tế hoặc thu hẹp các thành phần kinh tế là không phù hợp với lịch sử và cũng không phù hợp với lô-gích, với tư duy lý luận. Sự sáng tạo ở đây phải là càng ngày càng cụ thể hóa thêm, càng phong phú thêm các dạng, các loại thành phần kinh tế trên cái nền đa sở hữu.

Cần nhấn mạnh rằng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong khi nói những định hướng về chính sách kinh tế - xã hội, đã chỉ ra rất đúng đắn về việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Cương lĩnh ghi: "Phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo. Kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và mở rộng. Kinh tế cá thể còn có phạm vi tương đối lớn, từng bước đi vào con đường làm ăn hợp tác trên nguyên tắc tự nguyện, dân chủ và cùng có lợi. Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định. Phát triển kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức. Kinh tế gia đình được khuyến khích phát triển mạnh, nhưng không phải là một thành phần kinh tế độc lập. Các hình thức sở hữu hỗn hợp và đan kết với nhau hình thành các tổ chức kinh tế đa dạng. Các tổ chức kinh tế tự chủ và liên kết, hợp tác và cạnh tranh trong sản xuất và kinh doanh".

Có thể nói đó là những định hướng mang tính cách mạng, khoa học rất cao, có giá trị trong nhiều chục năm, chỉ dẫn hành động của Ðảng và nhân dân ta xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới.

Từ trước đến nay, tất cả các nghị quyết của các Ðại hội Ðảng đều khẳng định mạnh mẽ rằng kinh tế nhà nước phải giữ những vị trí then chốt, phải đóng vai trò chủ đạo, coi đó là một định hướng xã hội chủ nghĩa quan trọng bậc nhất của sự phát triển nền kinh tế nước ta. Dưới chế độ ta, làm yếu kinh tế nhà nước là làm yếu Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trong khi sử dụng sức mạnh tổng hợp của tất cả các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước phải luôn luôn là đội quân chủ lực trên mặt trận kinh tế, nhờ đó mà Nhà nước có lực lượng vật chất quan trọng và quyết định nhất để luôn luôn đảm bảo ổn định xã hội, bảo vệ Tổ quốc, độc lập tự chủ tiến lên. Nói vai trò kinh tế nhà nước thì trước hết nói bộ phận sống động của nó là các doanh nghiệp nhà nước. Chúng ta không phủ nhận tình trạng yếu kém, kinh doanh chưa hiệu quả của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp nhà nước, song phải ra sức chấn chỉnh, đổi mới, sắp xếp, củng cố theo hướng tiếp tục giữ vững và nâng cao vị thế của kinh tế nhà nước trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần hiểu đúng rằng các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, chứ chúng ta không thể cào bằng vai trò của chúng. Chúng ta phải thực hiện nghiêm túc điều Bác Hồ dạy: kinh tế quốc doanh là sở hữu của toàn dân, là lợi ích của toàn dân (tức là lợi ích cao nhất), nó lãnh đạo nền kinh tế quốc dân, cho nên Nhà nước phải bảo đảm cho nó phát triển ưu tiên.

Dĩ nhiên, chúng ta nhận thức rằng việc phát triển nhiều thành phần kinh tế khác, rất đa dạng, phong phú, là một thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, đang góp phần làm cho đất nước giàu mạnh. Chúng ta tiếp tục có thái độ và chính sách nhất quán, lâu dài phát triển các thành phần kinh tế đó. Với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, chúng ta coi tất cả các thành phần kinh tế hợp thành sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế quốc dân định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta thẳng thắn nói rằng trên thế giới ngày nay tồn tại cả chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, rằng nước ta đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, theo đó về lĩnh vực kinh tế vừa có chủ nghĩa xã hội vừa có chủ nghĩa tư bản nhưng chủ nghĩa xã hội là chủ đạo, tiếp thu một số yếu tố kinh tế của chủ nghĩa tư bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nếu không có kinh tế tư bản tư nhân thì việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước là vô nghĩa, nếu không kêu gọi tư bản nước ngoài đầu tư và không quan hệ với thị trường thế giới thì chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế cũng không có ý nghĩa bao nhiêu. Do đó, chúng ta không ngần ngại và không tránh né, trái lại nói rõ ràng là có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư bản tư nhân, làm cho chính sách và thái độ của chúng ta là đàng hoàng, minh bạch, là phù hợp với thực tiễn, phù hợp với từ ngữ quốc tế, nhưng là kinh tế tư bản tư nhân được phát triển theo luật pháp của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Mô hình kinh tế của chúng ta còn là xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần phát triển đồng bộ các loại thị trường: hàng hóa, dịch vụ; bất động sản; vốn, tiền tệ; sức lao động; khoa học và công nghệ... Tất cả các quy luật của thị trường đều tác động khách quan, đều được vận dụng để phát triển kinh tế theo quan điểm, đường lối của Ðảng ta. Ðịnh hướng xã hội chủ nghĩa ở đây trước hết là có vai trò quản lý của Nhà nước, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đối với thị trường. Nhà nước xuất phát từ lợi ích của toàn xã hội, sử dụng các chiến lược, kế hoạch, chính sách và công cụ đòn bẩy để hướng dẫn các thành phần kinh tế hoạt động kinh doanh. Chúng ta không thể xóa bỏ được chênh lệch về thu nhập do cơ chế thị trường sinh ra nhưng có chính sách và biện pháp giảm bớt sự chênh lệch đó giữa các tầng lớp dân cư, các vùng miền, các thành viên xã hội, trước hết phải xóa đói, giảm nghèo như mấy năm qua đã làm. Chúng ta sử dụng nhiều hình thức phân phối, đa dạng, phong phú, phù hợp với cơ chế thị trường, phù hợp với nền kinh tế nhiều thành phần, song phân phối theo lao động vẫn là chủ yếu kết hợp với phân phối theo phúc lợi xã hội từng bước tăng lên. Chúng ta không sáng tạo được quy luật cũng như không xóa được quy luật của thị trường, song chúng ta có thể và cần phải vận dụng nhằm thực hiện mục đích của chủ nghĩa xã hội như Bác Hồ đã chỉ ra: "Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động"(4). Ðấy là quy luật vận động cơ bản của thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phân biệt với sự vận động của thị trường tư bản chủ nghĩa. Hội nhập với thị trường quốc tế, trong đó có việc gia nhập "Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)" là xu hướng không tránh khỏi, đòi hỏi phải tuân theo luật chơi cơ bản của nó là "tự do hóa thương mại, tiến tới thuế suất hải quan bằng 0, không hạn ngạch xuất nhập khẩu". Như thế phải điều chỉnh chính sách, pháp luật, phù hợp với yêu cầu hội nhập nhưng phải bảo vệ những lợi ích cơ bản của nhân dân ta. Ở đây, cũng như mọi quốc gia, dân tộc, chúng ta phải giải quyết khéo léo, kết hợp cái chung với cái riêng, trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ, mà độc lập tự chủ lớn nhất của ta là "định hướng xã hội chủ nghĩa".

Ðường lối độc lập tự chủ về chính trị của chúng ta gắn liền với đường lối phát triển khoa học và công nghệ, với phát triển giáo dục và đào tạo; gắn liền với công cuộc công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Ðó là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người. Từ Ðại hội VIII của Ðảng đã đề ra thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà, phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại. Mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta là tập trung đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng cơ cấu công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ, tận dụng lợi thế của nước đi sau chúng ta tranh thủ những công nghệ mới. Về công nghiệp cũng phải đi ngay vào xây dựng những khu công nghệ cao, đồng thời thường xuyên coi trọng phát triển một số ngành công nghiệp nặng theo như quy luật của tái sản xuất mở rộng mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ ra. Quy luật này yêu cầu phải ưu tiên phát triển sản xuất tư liệu sản xuất, trong đó những ngành sản xuất tư liệu sản xuất để chế tạo tư liệu sản xuất phải phát triển nhanh nhất, cũng tức là công nghiệp nặng như điện, thép, chế tạo máy, cơ khí điện tử, cơ khí chính xác, hóa chất cơ bản... phải có sự quan tâm đúng mức; tất nhiên có sự tính toán, cân nhắc với những bước đi hợp lý, có quy hoạch, kế hoạch trên cơ sở phát huy cao độ nội lực, tăng cường sự hợp tác quốc tế, cần kiệm, chống lãng phí để xây dựng đất nước. Thực tiễn gần một trăm năm qua của thế giới còn cho thấy công nghiệp nặng quyết định nền kinh tế độc lập tự chủ trong mọi tình huống và cả sự nghiệp quốc phòng, đặc biệt đối với các nước xã hội chủ nghĩa mà các thế lực thù địch luôn luôn muốn bao vây, chống phá. Về cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ thì mô hình "Mía đường Sông Lam" và "Nông trường Sông Hậu" là những mô hình tốt để đưa nông nghiệp, nông thôn đi lên và đó cũng là biểu hiện của liên minh công nhân, nông dân, trí thức trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà.

Thực tiễn và lý luận cho thấy chúng ta không chỉ coi trọng xây dựng và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn phải gắn liền từng bước phát triển kinh tế với phát triển một nền văn hóa lành mạnh, cao đẹp làm nền tảng tinh thần và động lực vững chắc cho xây dựng đất nước. Một nền văn hóa lành mạnh, cao đẹp mà chúng ta muốn nói là nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, theo đó có sự tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đồng thời biết giữ gìn và phát triển bản sắc tốt đẹp của văn hóa dân tộc, có thế giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lao động sáng tạo, có đạo đức và lối sống "mình vì mọi người và mọi người vì mỗi người"... Những tiêu cực xã hội rất bức xúc hiện nay là hoàn toàn trái với bản chất nền văn hóa xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải ra sức ngăn chặn, đẩy lùi, làm cho các nhân tố tích cực được phát triển mạnh mẽ và chiến thắng.

Vấn đề bao trùm và cốt tử quyết định thắng lợi là xây dựng Ðảng thật tốt, thật đúng đắn. Chúng ta bảo đảm không bao giờ chệch hướng trong xây dựng Ðảng. Chúng ta xây dựng Ðảng cho xứng đáng là Ðảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Ðảng của Hồ Chí Minh. Chúng ta trung thành và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng ta giữ vững và áp dụng sáng tạo nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Ðảng như Cương lĩnh và Ðiều lệ Ðảng đã ghi. Chúng ta giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Ðảng, bảo đảm số lượng và chất lượng đảng viên xứng đáng là đội ngũ chiến sĩ tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, nâng cao sức chiến đấu, đẩy lùi mọi tiêu cực và suy thoái trong Ðảng. Ðảng ta chiến đấu vì lợi ích của nhân dân và của dân tộc Việt Nam, góp phần tích cực vào hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Ðảng ta luôn luôn xác định đường lối, chủ trương đúng đắn trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Tóm lại, thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng đất nước là quy luật tiến lên của nước ta, là đường lối chính trị cơ bản của Ðảng ta, là xứng đáng với sự hy sinh to lớn của bao thế hệ chiến sĩ cộng sản và đồng bào cả nước. Chúng ta tin rằng, Ðảng ta tiếp tục xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh nhất định lãnh đạo thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên đất nước Việt Nam.

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, tr.588-590.
(2) Hồ Chí Minh: Sđd.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, tr.223, 249.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập10, tr.271.

ÐỖ MƯỜI
Nguyên Tổng Bí thư
Ban Chấp hành T.Ư Ðảng