Tuy nhiên, các điều tra viên của cuộc Nghiên cứu dịch tễ học HIV về các hậu quả (HIV Epidemiologic Research on Outcomes - HERO) tại thành phố New York lưu ý rằng thậm các đối tượng nghiện ma tuý bị HIV dương tính vẫn dễ có nguy cơ tử vong nhiều hơn so với dân cư tại các nước giàu, được tiếp cận với các loại thuốc điều trị HIV.
So với các nhóm dân cư khác bị nhiễm HIV, người ta ít biết rõ về các chiều hướng tử vong ở những đối tượng nghiện ma tuý kể từ khi có liệu pháp chống HIV. Do đó, các điều tra viên thực hiện một cuộc nghiên cứu nhằm xác định tỷ lệ tử vong, nguyên nhân tử vong và các nhân tố liên quan đến việc tử vong ở nhóm 400 con nghiện bị HIV dương tính và 650 con nghiện có nguy cơ lây nhiễm HIV. Các điều tra viên đưa ra giả thuyết rằng ở những đối tượng nghiện ngập bị nhiễm HIV, việc sử dụng tích cực chất ma tuý và điều trị bằng thuốc ngủ gây tê là sự báo trước về tỷ lệ tử vong, bất chấp việc sử dụng liệu pháp chống HIV hoặc phương pháp đếm số tế bào CD4.
Từ năm 1996 đến năm 2001, người ta thu thập dữ liệu về các nguyên nhân dẫn đến tử vong. Số người chết được phân chia thành năm loại: liên quan đến HIV; nhiễm trùng; nguyên nhân y học khác; lạm dụng chất kích thích; bạo phát bệnh.
Cuộc nghiên cứu theo dõi, phân tích 400 đối tượng bị HIV dương tính trong tổng số 1443 người và 3179 người từ nhóm đối tượng nghiện ma tuý chưa bị nhiễm HIV. Ở vạch ranh giới, số lượng đáng kể các cá nhân bị HIV dương tính thường là người da đen, sống bằng trợ cấp xã hội, có lịch sử nghiện chích ma tuý so với nhóm dân cư có nguy cơ bị nhiễm HIV (p < 0 .001). Số lượng tế bào CD4 trung bình ở những bệnh nhân bị HIV dương tính là 322 tế bào/mm3. Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, 293 cá nhân bị HIV dương tính có số lượng tế bào CD4 dưới mức 350 tế bào/mm3, và theo các hướng dẫn điều trị HIV của Mỹ vào thời điểm đó, thì họ thích hợp với liệu pháp điều trị HIV. Tuy nhiên, chỉ có 186 người (60%) trong số các bệnh nhân này of thực sự tiến hành liệu pháp điều trị vi rút HIV.
Trong thời gian nghiên cứu, số lượng đáng kể các đối tượng nghiện ma tuý bị HIV dương tính thường dễ tử vong hơn (tỷ lệ tử vong 8 trên 100 người) so với những đối tượng lạm dụng chất kích thích chưa bị nhiễm HIV (tỷ lệ tử vong 2 trên 100 người, p < 0,001). Tuy nhiên, torng số các cá nhân bị HIV dương tính, tỷ lệ tử vong đáng kể là vào giữa các năm 1996 (11 trên 100 người) và 2001 (5 trên 100 người, p = 0,04).
Tổng cộng 106 bệnh nhân bị HIV dương tính đã chết và nguyên nhân tử vong được xác định rõ ở 104 trog số các cá nhân này. Nguyên nhân tử vong phổ biến nhất là vì HIV (38%), kế đến là nhiễm trùng (24%), lạm dụng chất kích thích (22%), các nguyên nhân y học khác (14%) và bạo phát bệnh (3%).
Các đối tượng bị HIV dương tính so với các đối tượng nghiện ma tuý chưa nhiễm HIV thì dễ có khả năng tử vong nhiều hơn vì các nguyên nhân liên quan đến việc lạm dụng chất kích thích (p = 0,003), nhiễm trùng (p < 0,001), và các nguyên nhân y học khác (p < 0,001).
Số lượng tế bào CD4 trung bình tại thời điểm tử vong của những người tham gia vào cuộc nghiên cứu là 98 tế bào/mm3. Tuy nhiên, các điều tra viên lưu ý rằng mức thấp nhất về số lượng tế bào CD4 có thay đổi, tuỳ theo nguyên nhân tử vong. Trong số các cá nhân bị chết vì các nguyên nhân liên quan đến AIDS thì số lượng tế bào CD4 thấp nhất là 36 tế bào/mm3, nhưng là 90 tế bào/mm3 đối với những bệnh nhân chết vì nhiễm trùng, 184 tế bào/mm3 đối với bệnh nhân chết vì các nguyên nhân y học khác, 220 tế bào/mm3 ở những đối tượng chết vì lạm dụng chất kích thích và 404 tế bào/mm3 đối với ba đối tượng bị HIV dương tính chết vì bạo phát bệnh.
Các điều tra viên chú ý đến số lượng tế bào CD4 lúc phương pháp điều trị HIV được khởi xướng và các trường hợp sống sót. Họ nhận thấy các cá nhân bắt đầu điều trị với số lượng tế bào CD4 là 201 – 350 tế bào/mm3 thì có khả năng sống sót đáng kể so với những người không được điều trị HIV cho đến khi số lượng tế bào CD4 của họ giảm xuống dưới mức 200 tế bào/mm3 (p = 0,01). Tuy nhiên, các bệnh nhân bắt đầu điều trị với số lượng tế bào CD4 trên 350 tế bào/mm3 không có khả năng sống sót nhiều hơn so với các bệnh nhân bắt đầu điều trị với lượng tế bào CD4 ở khoảng giữa 201 – 350 tế bào/mm3.
Cuối cùng, các điều tra viên đã sử dụng mô hình rủi ro theo tỷ lệ Cox để xác định các nhân tố gắn liền với cái chết. Ở những bệnh nhân HIV dương tính, nhân tố duy nhất gắn liền chặt chẽ với nguy cơ tử vong cao là số lượng tế bào CD4 dưới 200 tế bào/mm3 (tỷ lệ mạo hiểm 4,23). Việc sử dụng ma tuý trong khi theo dõi nghiên cứu hay việc điều trị bằng thuốc ngủ gây tê đều không báo trước được về nguy cơ tử vong cao.
Mặc dù tỷ lệ tử vong ở những đối tượng nghiện ma tuý bị HIV dương tính đã giảm đáng kể sau khi có liệu pháp điều trị HIV hiệu quả, nhưng các điều tra viên lưu ý rằng so với các nhóm bị ảnh hưởng của HIV khác, thì “việc giảm tỷ lệ tử vong trong nhóm người sử dụng ma tuý vẫn rất khiêm tốn”. Hơn nữa, đó là mức cao nhất được nhận thấy ở những cá nhân tiếp cận với liệu pháp điều trị HIV tại các nước phát triển. Họ cho rằng điều này có thể là bởi vì việc sử dụng kém phương pháp điều trị HIV và bởi vì con số các ca tử vong quá lớn vì những nguyên nhân không liên quan đến HIV. Họ kết luận rằng các cuộc can thiệp nhắm vào việc “cải thiện chăm sóc sức khoẻ và y tế dự phòng ở những đối tượng nghiệp ngập đã được bảo đảm”.
Bài xã luận kèm theo nhấn mạnh rằng chỉ có 60% các cá nhân, được chọn để điều trị HIV là thực sự được điều trị. Các tác giả lưu ý rằng việc sử dụng ma tuý hiện nay và điều trị bằng thuốc ngủ gây tê đều không dự đoán được về tỷ lệ tử vong ở những bệnh nhân được áp dụng liệu pháp điều trị HIV; phương pháp điều trị HIV “nên được thực hiện cho tất cả những bệnh nhân đã được chỉ định điều trị trên cơ sở các hướngd ẫn đã có, và việc điều trị lạm dụng chất kích thích cũng nên được tích cực khuyến khích cùng lúc, cùng với việc phòng chống nhằm làm giảm những nguy cơ liên quan đến tình dục”.
▪ Quyết định của TP HCM về chăm sóc chữa trị bệnh nhân HIV/AIDS (30/08/2005)
▪ Khôi phục hoạt động các điểm xét nghiệm HIV ở Tulsa (bang Oklahoma) (30/08/2005)
▪ Argentina và Brazil cam kết hợp tác sản xuất thuốc điều trị AIDS (30/08/2005)
▪ Thuốc điều trị HIV gây ảnh hưởng đến hệ thần kinh (27/08/2005)
▪ Phát hiện phương thức điều trị HIV mới (27/08/2005)
▪ Hội nghị về việc sử dụng methamphetamine và HIV ở người đồng tính gốc châu Mỹ Latin (26/08/2005)
▪ Đã đến lúc tăng cường phổ biến thông tin phòng chống căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS (26/08/2005)
▪ Việc điều trị HIV ở các bà mẹ đang trong thời gian cho con bú (25/08/2005)
▪ Bao cao su là biện pháp cuối cùng nhằm phòng chống HIV (25/08/2005)
▪ Nevirapine so với AZT (25/08/2005)