|
Nguyễn Dy Niên, Thứ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Uỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt NAm (bài đăng trên báo Quê Hương, số 01/12/1999)
Giao lưu văn hoá vốn từ xa xưa đã là một quy luật phát triển của mọi dân tộc. Ngày nay, giao lưu văn hóa lại có một vai trò đặc biệt quan trọng và diễn ra trên một qui mô chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Lịch sử chứng minh rằng mỗi dân tộc cũng như mọi sinh vật chỉ tồn tại và phát triển được trong quá trình trao đổi giữa bản thân mình với thế giới xung quanh.
Từ xa xưa, văn hoá của mỗi dân tộc phải thường xuyên tiếp nhận những thành tựu của nền văn hoá khác, coi như điều kiện để tránh khỏi sự trì trệ và luôn luôn vươn lên trên con đường phát triển. Ngày nay, giao lưu văn hoá còn thiết yếu hơn nhiều bởi dân tộc nào nếu đứng ngoài giao lưu văn hoá và không chủ động trong giao lưu văn hoá thì dân tộc đó khó tránh khỏi suy thoái. Giao lưu văn hoá chính là sự tác động biện chứng giữa các yếu tố nội sinh và ngoại sinh của quá trình phát triển. Yếu tố nội sinh giữ vai trò chủ thể, định hướng mối quan hệ với các yếu tố ngoại sinh. Ngược lại, các yếu tố ngoại sinh ảnh hưởng mạnh mẽ dưới dạng kích thích hay kìm hãm sự tiến hoá của các yếu tố nội sinh. Điều quan trọng là làm sao xử lý đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố ấy trong giao lưu văn hoá.
Một dân tộc có thể đạt được sự tiến bộ vượt bậc nếu dân tộc ấy biết tiếp thu một cách sáng tạo những nhân tố ngoại sinh và chuyển thành một sức mạnh nội sinh trong quá trình tự bảo tồn và phát triển. Mặt khác nếu như tự khép kín mình trong sự trì trệ và lạc hậu hoặc không dựa vào nhân tố nội sinh, chỉ tiếp thu không chọn lọc văn hoá nước ngoài thì sớm muộn dân tộc ấy cũng sẽ đánh mất nền văn hoá của mình và thực tế sẽ tự xoá bỏ mình với tính cách là một dân tộc.
Cách đây mấy trăm năm, chủ nghĩa đế quốc phương Tây đi xâm lược các nước nhỏ yếu, đã mở rộng sự giao lưu văn hoá trên phạm vi toàn thế giới trên cơ sở bóc lột về kinh tế và áp bức về chính trị đối với các nước thuộc địa. Sự giao lưu văn hoá đã diễn ra trong sự áp đặt và bất bình đẳng giữa chính quốc và thuộc địa. Văn hoá thực dân trở thành văn hoá thống trị, nhiều lúc gây nên sự phản ứng lúc ngấm ngầm, lúc công khai từ phía nhân dân bản xứ. Sự xung đột về văn hoá vừa là sự phản ánh, vừa là sự bổ sung cho xung đột về kinh tế và chính trị. Trong thời kỳ này cũng diễn ra sự giao lưu văn hoá rộng rãi giữa các nước đế quốc về những thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghiệp, thương nghiệp và quản lý xã hội. Giao lưu văn hoá cũng tạo ra sự xích lại gần nhau giữa vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức, tạo nên một sức mạnh lớn dọn đường cho sự xoá bỏ chủ nghĩa thực dân và đem lại độc lập cho các dân tộc.
Trong hoàn cảnh của thời đại ngày nay, giao lưu văn hoá còn vượt xa thời kỳ đế quốc chủ nghĩa về cả nội dung, ý nghĩa, quy mô và tốc độ. Giao thông và thông tin hiện đại phát triển chưa từng có, đã thu hẹp cả không gian và thời gian, tạo thuận lợi cho sự giao lưu văn hoá trên phạm vi toàn thế giới. Loài người hàng ngày có thêm nhiều dịp trao đổi tiếp xúc với nhau, đẩy mạnh sự giao lưu về mọi mặt kinh tế mậu dịch, đầu tư, du lịch, văn hoá nghệ thuật. Làn sóng di dân của loài người từ nước này sang nước khác cũng mở rộng hơn nữa sự giao lưu trực tiếp và mạnh mẽ hơn về cả đời sống vật chất và tinh thần của nhiều dân tộc.
Phương tiện thông tin đại chúng phát triển nhanh chóng đang không ngừng đem lại cho mọi người những lượng thông tin ngày một nhiều hơn về thế giới bên ngoài. Trên cơ sở đó, con người ở thời đại chúng ta có thể chủ động tiếp thu, gạt bỏ và lựa chọn các loại hình văn hoá của loài người. Sự hấp thụ lẫn nhau giữa các dân tộc, các khu vực, các nền văn hoá đã khiến cho những tinh hoa văn hoá từ các miền khác nhau trên hành tinh được kết tụ lại thành những yếu tố cấu thành nền văn hoá chung của nhân loại. Điều này không có nghĩa rằng mọi nền văn hoá dân tộc sẽ hoà tan trong nền văn hoá chung, mà chỉ có nghĩa là nền văn hoá chung tiếp nhận những nhân tố tốt đẹp của mọi nền văn hoá, phản ánh những thành tựu mà loài người đã đạt được từ các lĩnh vực khác nhau, từ các dân tộc khác nhau. Nền văn hoá chung ấy chỉ có thể phát triển trên cơ sở của sự phát triển ngày một tốt đẹp và phong phú của mỗi nền văn hoá dân tộc.
Thời đại chúng ta đang đặt ra một loạt vấn đề liên quan tới sự tồn tại của cả hành tinh này, liên quan đến vận mệnh của cả nhân loại. Quá trình cải tạo thiên nhiên, chinh phục thiên nhiên của loài người đang bị thiên nhiên quật trở lại. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đem lại những của cải vật chất dồi dào cho một thế kỷ, nhiều gấp nhiều lần của cải của hàng trăm thế kỷ trước cộng lại. Tuy nhiên, sự tăng trưởng về của cải vật chất chưa xoá bỏ được đời sống nghèo khổ của quảng đại quần chúng nhân dân, mà đang dẫn họ đến trước một sự huỷ diệt. Sự phá hoại môi trường đang tạo ra một sự ô nhiễm phổ biến, đang là những nguyên nhân không nhỏ của những thiên tai khủng khiếp: bão lụt và hoả hoạn. Bệnh HIV/AIDS và nhiều căn bệnh mới tiếp tục đe doạ cuộc sống của con người mà chưa có phương thức cứu chữa. Dân số của nhân loại ngày một tăng lên, ngược chiều với sự phát triển về tư liệu sinh hoạt.
Tất cả những điều nói trên đang kêu gọi toàn thể loài người phải sớm đoàn kết lại, cùng dồn trí tuệ và tài năng không phải để hận thù nhau, xung đột và chém giết nhau, mà để cùng nhau ngăn chặn thảm hoạ trước mắt, gạt bỏ mọi trở ngại, để nhân loại bước vào thiên niên kỷ mới với một cuộc sống xứng đáng danh nghĩa con người.
Lịch sử đã mở ra một tiền đồ rực rỡ cho sự phát triển về mọi mặt trong một thế giới đầy tình thương và hạnh phúc. Nhưng tiếc thay lịch sử chưa quét đi được những dục vọng tàn bạo và ích kỷ, đang làm hoen ố và huỷ hoại lương tâm và nhân phẩm con người. Trong tình hình này giao lưu văn hoá không chỉ tạo diều kiện cho sự hiểu biết, thông cảm và học hỏi lẫn nhau giữa người và người, mà giao lưu văn hoá còn bị lợi dụng như một phương tiện thực hiện khuếch trương kinh tế, áp bức chính trị, đầu độc và nô dịch văn hoá. Để giao lưu văn hoá thực sự là điều kiện thuận lợi nhất để phát huy sức mạnh tinh thần, phục vụ cho lợi ích thống nhất của cá nhân và cộng đồng, thì cả nhân loại cần sớm thức tỉnh và dừng lại ở bên bờ vực thẳm của sự huỷ diệt.
Ngày nay bóng đen của hận thù, của thành kiến giữa các dân tộc, các sắc tộc, các tôn giáo đang trùm lên nhiều khu vực trên thế giới. Cuộc xung đột kéo dài ở Trung Đông, vùng Vịnh, ở nhiều nước châu á, châu Phi, vùng Ban-căng và gần đây cuộc chiến lại bùng lên ở Đông Timor... Tất cả những sự việc nói trên đã phá hoại xu hướng lành mạnh của giao lưu văn hoá và cản trở sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Phải chăng đây là những cơn ác mộng cuối cùng của nhân loại, để từ giã những thế kỷ đau thương của mình, để thức tỉnh trước những nhiệm vụ quang vinh là cùng nhau xây dựng một kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của hoà bình, hữu nghị, phồn vinh và hạnh phúc. Trong hoàn cảnh này, giao lưu văn hoá phải là một cầu nối giữa những thiện chí của con người. Giao lưu văn hoá phải là một quá trình chiến thắng của tình thương đối với hận thù, của sáng suốt đối với ngu muội, của khoan dung đối với thành kiến, của hoà bình đối với bạo lực.
Mọi sự xung đột trên thế giới đều bắt nguồn sâu xa từ sự xung đột về lợi ích kinh tế, chính trị, được che đậy dưới hình thức của sự xung đột về văn hoá: tôn giáo, đạo đức, lối sống. Văn hoá vốn là sự thăng hoa của kinh tế và chính trị, nhưng một khi đã được định hình và ăn sâu vào tâm lý của cá nhân và cộng đồng thì nó mang một sức mạnh mới. Nó trở thành bảo thủ và ngoan cố, tác động trở lại kinh tế và chính trị, đồng thời mang một ý nghĩa quyết định đối với ý nghĩ và hành vi của con người trong sự xung đột.
Trong những thập kỷ gần đây, UNESCO và các tổ chức tiến bộ của nhân loại đã cùng đặt lại vấn đề văn hoá và giao lưu văn hoá, khẳng định lại vị trí của văn hoá so với kinh tế và chính trị trong sự phát triển chung của nhân loại và của mỗi dân tộc. Việc UNESCO phát động thập kỷ văn hoá và phát triển trước đây, và thập kỷ văn hoá hoà bình bắt đầu từ năn 2000 được sự đồng tình rộng rãi và sự tham gia tích cực của giới quản lý, giới trí thức và nhân dân tiến bộ. Những năm quốc tế về khoan dung, về người già, về trẻ em đều phản ánh nguyện vọng chính đáng của nhân loại.
Tuy nhiên trong những cuộc vận động nói trên, giao lưu văn hoá cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn về tư tưởng, quan điểm, về nội dung và định hướng của vấn đề. Sự khác nhau và xung đột về quyền lợi kinh tế và chính trị cũng diễn ra trên lĩnh vực văn hoá. Nhiều siêu cường trong ý đồ lũng đoạn về kinh tế, chinh phục về chính trị đã mở nhiều cuộc tấn công về văn hoá. Với ưu thế về tài chính và nhất là với những phương tiện hiện đại của truyền thống, nhiều nền văn hoá từ bên ngoài xâm nhập vào nội địa của các nước, lấn át nền văn hoá bản địa, phổ biến lan tràn nhiều sản phẩm văn hoá mang nhân tố tiêu cực và độc hại.
Phản ứng mạnh mẽ trước sự du nhập ồ ạt của văn hoá nước ngoài được coi như một sự xâm lược về văn hoá, nhiều nước đang phát triển đã phục hồi văn hoá quá khứ của mình, coi như đối trọng với văn hoá ngoại lai. Phản ứng này nhiều khi mang tính chất bảo thủ, phục hồi cả những cái đã lỗi thời, từ đó cản trở quá trình hiện đại hoá của đất nước.
Vấn đề đặt ra chung cho các dân tộc hiện nay là trong thời đại hội nhập và toàn cầu hoá, mỗi dân tộc phải có đầy đủ bản lĩnh để phát huy và đổi mới nền văn hoá của mình trước những yêu cầu cụ thể và độc đáo của chính mình và trên cơ sở tiếp thu với tinh thần chủ động và sáng tạo những thành tựu của văn hoá thế giới. Như thế, tránh được sai lầm của sự khép kín và cả sai lầm của việc sao chép một cách không chọn lọc văn hoá nước ngoài.
Trong tình hình trên đây, Việt Nam luôn luôn bộc lộ bản lĩnh của mình trong giao lưu văn hoá. Chúng ta phát huy sức mạnh truyền thống trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đó là truyền thống luôn luôn giữ vững và phát triển bản sắc dân tộc trong văn hoá, đồng thời chủ động, kịp thời và mạnh bạo tiếp thu những thành tựu tốt đẹp văn hoá nhân loại.
Từ thời kỳ xa xưa, trong quan hệ gần gũi với các nước khu vực Đông Nam á, Việt Nam đã trao đổi và cùng tiếp thu lẫn nhau những kinh nghiệm trong sản xuất, những tập quán trong sinh họat, và từ đó có nhiều điểm tương đồng về tín ngưỡng, về đạo đức và lối sống. ở đây ảnh hưởng của ấn Độ đối với khu vực là sâu sắc.
Trong thời kỳ một nghìn năm bắc thuộc dài đến như vậy, nhưng một điều kỳ lạ là Việt Nam vẫn giữ vững truyền thống bất diệt của mình và không bị đồng hoá. Đó là lòng yêu nước thương người, là tinh thần sáng tạo và dũng cảm. Về mặt giao lưu văn hoá, Việt Nam đã không bảo thủ và không bài ngoại, tiếp thu cả đạo Phật, đạo Khổng, đạo Lão. Nhưng đây không phải là sự sao chép xô bồ mà là sự cải biến lại cho phù hợp với bản sắc và tâm hồn dân tộc.
Về sau, trong quan hệ với văn hoá Pháp, với văn hoá các nước xã hội chủ nghĩa và với các nền văn hoá của nhân loại ngày nay, Việt Nam đều giữ vững truyền thống ấy.
Ngày nay, trước xu hướng toàn cầu hoá, Việt nam tuyên bố: "muốn làm bạn với tất cả các nước". Điều này vừa thể hiện nhu cầu phát triển của đất nước hôm nay, vừa phát huy truyền thống lâu đời của dân tộc trong giao lưu văn hoá.
Việt Nam đã cử các đoàn ra nước ngoài ngày một nhiều, và tiếp nhận bè bạn trên thế giới ngày càng đông đảo. Vấn đề đặt ra là nắm vững đường lối văn hoá của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 05 của Hội nghị Trung ương. Các Bộ Ngoại giao, Bộ Văn hoá Thông tin, Bộ Giáo dục Đào tạo có trách nhiệm phổ biến đường lối đối ngoại của Đảng cùng những đặc điểm của văn hoá Việt Nam, nâng cao trình độ của mọi người trong việc đánh giá những mặt tích cực, tiêu cực của các nền văn hoá trên thế giới ngày nay.
Trong giao lưu văn hoá, Việt Nam không chỉ tiếp nhận văn hoá của nước ngoài mà còn phải trao lại nước ngoài, nghĩa là giới thiệu những thành tựu của văn hoá Việt Nam về mọi mặt.
Việt Nam chúng ta coi giao lưu văn hoá ở thời đại ngày nay chính là điều kiện thuận lợi nhất để đất nước ta nhanh chóng xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu để vươn lên hàng đầu của quá trình phát triển tiến bộ của thế giới, vừa không ngừng nâng cao nền văn hoá của bản thân mình, vừa góp phần xứng đáng vào nền văn hoá chung của nhân loại. |
|