Phát hiện sớm và phòng ngừa tật cận thị
Các Website khác - 14/07/2005
Nếu không được phát hiện và điều trị sớm bệnh cận thị sẽ gây mệt mắt, thậm chí nhức mắt hoặc nhức đầu, thậm chí còn có thể dẫn đến những bệnh lý như lé mắt, nhược thị, co quắp điều tiết... gây ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.
Bộ Giáo dục và Đào tạo từng có cuộc điều tra cho thấy tật cận thị học đường có chiều hướng gia tăng mạnh ở thành phố. Ngay ở bậc tiểu học, tỷ lệ cận thị đã là 10%.

Ở bậc trung học phổ thông cứ bốn học sinh lại có một em mắc tật khúc xạ này.

Khoa khúc xạ Bệnh viện Mắt TP Hồ Chí Minh cũng tiến hành một cuộc khảo sát trên gần 5.200 học sinh lớp 1, 6 và 10. Kết quả là 25 % học sinh mắc tật cận thị, trong đó chỉ có 8% đeo kính, và 30% trong số ấy được đeo kính đúng với tình trạng của mắt.

Kết quả trên chứng tỏ không chỉ các em học sinh mà ngay cả các bậc cha mẹ cũng rất ít quan tâm về tật cận thị và tác hại của nó.

Theo bác sĩ Trần Hải Yến - Trưởng khoa khúc xạ của Bệnh viện Mắt TP Hồ Chí Minh - nhiều bậc phụ huynh không để ý và chỉ phát hiện con mình bị cận thị khi các cháu học hành giảm sút và cô giáo đề nghị gia đình cho con đi kiểm tra mắt. Khi phát hiện trẻ bị cận thị, nhiều người còn nghĩ đơn giản chỉ cần đo kính một lần là đủ, xem thường việc tái khám định kỳ. Trong khi đó việc tái khám định kỳ lại rất quan trọng vì trẻ đang phát triển nên độ cận còn tăng, cần khám 6 tháng một lần để kiểm tra và điều chỉnh kính phù hợp.

Khi đã cận thị, nếu không được phát hiện sớm để điều trị sẽ gây mệt mắt, thậm chí nhức mắt hoặc nhức đầu ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Trẻ cận thị bị hạn chế trong nhiều lĩnh vực như sự nhanh nhạy, giao tiếp xã hội, nhận biết hình thể, sử dụng bàn tay cũng như việc lựa chọn một số nghề. Hơn nữa, cận thị còn có thể dẫn đến những bệnh lý như lé mắt, nhược thị (người đã bị nhược thị hay lé thì thị lực không thể phục hồi như cũ. Dù có áp dụng tất cả các biện pháp điều trị tiên tiến nhất, kể cả phẫu thuật thì thị lực chỉ có thể đại tối đa ở mức 7/10), co quắp điều tiết... gây ảnh hưởng đến quá trình học tập của trẻ và còn để lại di chứng cho thế hệ sau.

Có tính di truyền

Ở nhà cũng như ở trường, nhiều trẻ suốt ngày dán mắt vào máy vi tính. Mắt bị mỏi có thể dẫn tới chứng cận thị sớm. Nghiên cứu thực hiện ở 8 trung tâm y tế của Mỹ cho thấy, 25 - 39% trẻ có nguy cơ bị các chứng bệnh về mắt liên quan tới máy vi tính.

Cũng giống như người lớn, trẻ em bị mỏi mắt nếu nhìn vào màn hình vi tính quá lâu. Nhưng trẻ có khả năng thích nghi rất cao nên thường không phàn nàn gì. Cận thị không phải bao giờ cũng là hậu quả của sự mỏi mắt.

Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu cho thấy, trẻ càng làm việc bằng mắt nhiều thì càng dễ bị cận thị. Các nhà khoa học cũng ghi nhận khi đọc sách, mắt không nhìn liên tục vào từ tiếp theo của câu mà nhảy từ phần này sang phần khác của câu. Mỗi lần mắt bạn làm động tác nhảy này, chúng lại phải điều chỉnh tiêu điểm lại, nghĩa là điều tiết cho phù hợp với khoảng cách. Điều này khiến mắt mệt mỏi.

Một nguyên nhân khác có thể gây cận thị cũng được ghi nhận là di truyền. Các phiên bản lỗi của PAX6 - một gen quan trọng trong quá trình phát triển thị giác - có thể khiến cho mắt dễ bị cận thị hơn. Những trẻ đã mang sẵn trục trặc này sẽ có nguy cơ bị tật nặng hơn nếu suốt ngày dán mắt vào tivi hoặc chơi điện tử.

Trước đây, người ta cho rằng yếu tố di truyền chiếm tới 89% nguyên nhân gây cận thị, yếu tố môi trường là 11%. Việc tìm thấy phiên bản lỗi của PAX6 làm tăng sức thuyết phục của luận điểm này.

Khám mắt định kỳ cho trẻ

Theo bác sĩ Trần Hải Yến, phương pháp điều trị thuận tiện và rẻ tiền nhất là đeo kính gọng, sau đó là kính tiếp xúc (kính áp tròng). Đối với trẻ em, không có chỉ định mổ cận thị bằng Laser Excimer trừ những trường hợp rất đặc biệt, chỉ người trên 18 tuổi mới được áp dụng phương pháp điều trị này.

Khi đã bị cận thị, việc đeo kính hoặc dùng thuốc đều không thể ngăn cản bệnh tiến triển. Một học sinh bị cận thị lúc mới được phát hiện phải đeo kính 0,5 đi-ốp, thì đến 30 tuổi có thể phải đeo kính 2,5-5 đi-ốp hoặc hơn. Vì vậy, việc phòng bệnh có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Nên có một chế độ học tập và làm việc hợp lý xen kẽ với những vận động thể lực vừa phải. Học tập, làm việc, đọc sách đúng khoảng cách, đúng tư thế, đủ ánh sáng (nơi tối nhất không dưới 30 lux, nơi sáng nhất không quá 700 lux) sẽ giúp cho mắt đỡ mệt mỏi.

Khi ngồi viết, ánh sáng phải chiếu phía đối diện của tay cầm bút, chữ và giấy phải có độ tương phản tốt. Ngồi thẳng lưng hai chân khép, hai bàn chân để ngay ngắn sát nền nhà, đầu cúi 10-15 độ. Khoảng cách từ mắt đến sách vở trên bàn học là 25cm đối với học sinh tiểu học, 30cm với học sinh trung học cơ sở, 35cm với học sinh trung học phổ thông và người lớn.

Thầy cô giáo và cha mẹ học sinh phải thường xuyên nhắc nhở, không để các em cúi gằm mặt, nghiêng đầu, áp má lên bàn học khi đọc hoặc viết. Cho mắt thư giãn bằng cách nhìn ra xa trong 5 - 10 phút sau 30 - 40 phút làm việc. Không nên để mắt quá căng thẳng khi tiếp xúc với màn hình vi tính, không chơi trò chơi điện tử lâu... Quan trọng nhất là nên đưa trẻ đi khám thị lực định kỳ 6 tháng một lần.

Bỏ những thói quen có hại cho mắt như nằm, quỳ để đọc sách hoặc viết bài; đọc sách báo, tài liệu khi đang đi trên ô-tô, tàu hỏa, máy bay... Khi xem tivi, video phải ngồi cách xa màn hình tối thiểu 2,5m, nơi ánh sáng phòng phù hợp. Không tự ý dùng kính đeo mắt không đúng tiêu chuẩn, khi đeo kính cần tuân thủ hướng dẫn của nhà chuyên môn.

Ăn uống phòng cận thị:

Nên ăn nhiều:

- Chất bột, gạo lứt còn cám (vì còn vitamin B2)...

- Cá tôm, nghêu, sò, ốc, hến, trái cây tươi, thịt nạc, rau xanh...

- Gan, nấm, hành, ngũ cốc, măng...

- Cà rốt, ớt, bắp, hẹ, rau cải thìa, rau cần...

Hạn chế ăn dầu mỡ động vật. Đặc biệt là hạn chế ăn ngọt.

Theo Nông thôn ngày nay