Ai phản đối những mối tình ấy quả là lạc hậu và không hiểu tình yêu là gì. Nó chỉ trở thành bi kịch khi giữa họ không có tình yêu hoặc vì những toan tính khác...
Có lẽ một trong những cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài “nổi đình nổi đám” đầu tiên ở nước ta chính là cuộc hôn nhân giữa cô dâu Việt và chàng rể Trung Quốc, đó là công chúa Mỵ Châu với hoàng tử Trọng Thủy. Cuộc gả bán mang màu sắc gián điệp này đã đưa đến một kết cục bi thảm: Mỵ Châu tưởng rằng mình được yêu hết lòng với chồng, đã trao cho Trọng Thủ
 |
"Bán mình" để báo hiếu? |
Kế đến là cô dâu Việt Huyền Trân, một nàng công chúa cành vàng lá ngọc đời Trần, nàng đã có người yêu rất xứng đôi vừa lứa với nàng, một vị tướng trẻ tuổi tài cao là Trần Khắc Chân. Thế nhưng để mở rộng bờ cõi, nhà vua đã gả con gái cho một vị vua nước làng giềng. Đau đớn tận cùng nhưng Huyền Trân vì việc lớn phải gạt nước mắt từ giã người yêu và quê cha đất tổ để làm một bà hoàng bất đắc dĩ với người đàn ông mà nàng không yêu.
Tuy được vị vua ấy chiều chuộng hết mực nhưng tình yêu vẫn không thể có được trong tim nàng. Để rồi khi vị vua băng hà, theo phong tục nước ấy lẽ ra người vợ yêu chồng phải lên giàn hỏa thiêu để cùng nhau sang bên kia thế giới thì nàng Huyền Trân tội nghiệp của chúng ta đã trốn theo người tình Trần Khắc Chân trong một cuộc giải cứu ngoạn mục do chính vị tướng họ Trần này tổ chức và đưa nàng về lại được quê nhà...
Số phận hôn nhân của những cô gái vương giả ấy được đời đời thương cảm. Vì sao? Vì họ chỉ là nạn nhân từ sự sắp xếp, áp đặt của người lớn, chủ yếu là cha mẹ của họ mà mục đích không phải là hạnh phúc của con cái.
Bán mình báo hiếu?
Ngày nay cũng vậy, không ít những bậc cha mẹ áp đặt việc hôn nhân của con, họ tính toán sao để có lợi cho mình nhất. Trong số đó không ít người xem việc con lấy chồng ngoại như một cơ hội đổi đời. Có thể nói đó như một cách “bán con” là không hề quá lời.
Cách đây ít lâu, một cô gái trẻ từ Tây Ninh đã viết thư đến văn phòng đại diện của chúng tôi để cầu cứu. Cô là một Bí thư Đoàn xã, ấy thế mà khi phong trào lấy chồng Đài Loan ở địa phương rộ lên cô bị cha mẹ bắt phải lấy một người đàn ông ĐL mà cô chưa hề biết mặt để có tiền trả nợ cho việc làm ăn thua lỗ của gia đình.
Khi cô phản đối chuyện ấy liền bị cha mẹ, anh em chửi rủa thậm tệ, xem như một người con bất hiếu. Quá đau khổ, hoảng loạn nên cô phải gật đầu đại để được yên thân, lập tức cô được gia đình tỏ ra yêu thương, chăm sóc, cưng quý... Khi được tư vấn, cô đã lên thành phố tìm được việc làm trong một siêu thị để có tiền gởi về giúp đỡ gia đình.
Có thể nói hầu hết các cô gái đi lấy chồng ngoại đều có sự đồng tình hoặc chủ trương của gia đình, nhiều người chỉ vì vài nghìn đô là họ sẵn sàng cho con dấn thân vào một cuộc hôn nhân với tương lai vô định. Và các cô gái đã hiểu sai chữ hiếu trong trường hợp này. Có hiếu nghĩa là không làm điều gì để cha mẹ phải hổ thẹn, biết chăm sóc cha mẹ và phụng dưỡng lúc họ già yếu, chứ không phải lấy người cha mẹ ép buộc để kiếm tiền mang về cho gia đình là có hiếu.
Sự nhẫn tâm của những dịch vụ mai mối
Nghề mai mối vốn không được mọi người tin cậy từ xưa ở nước ta, vì thế mới có câu ca dao: “Mai dong chân thấp chân cao/ Muốn ăn thịt mỡ nói vào nói ra”. Chỉ vì miếng thịt mà không ít bà mai thời xưa đã nói không đúng sự thật để rồi những người được họ mai mối phải thất vọng về nhau lẫn oán trách họ.
Còn ngày nay, ai cũng biết rằng công việc mai mối “xuyên quốc gia” là một dịch vụ béo bở, hái ra tiền. Như trong dịch vụ lấy vợ Việt, những chú rể Đài Loan, Hàn Quốc đã phải bỏ ra từ mười nghìn đến vài ba chục nghìn đô la để dịch vụ lo “trọn gói”, nhưng nhiều khi gia đình và cô dâu chỉ nhận được từ họ vài trăm đến vài nghìn đô la.
Nhưng đó chưa là điều bất nhẫn nhất bằng việc họ đưa ra thông tin sai sự thật về cô dâu, chú rể. Chẳng hạn như cô dâu lúc nào cũng là trẻ, xinh đẹp, ngoan hiền, siêng năng, không bỏ trốn. Còn về chú rể thì còn tệ hại hơn. Một anh nông dân thì được họ đẩy lên là “chủ trang trại”. Chủ một tiệm tạp hóa nhỏ thì họ nổ thành “chủ doanh nghiệp”. Công nhân thì họ hô biến thành kỹ sư, y công biến thành bác sĩ. Bị tâm thần, tàng tàng cù lũ được miêu tả là “hiền lành, ít nói” và cho dù bị thọt, bị gù thì vẫn được xem là “có sức khỏe”.
Không ít trường hợp khi gặp mặt chú rể trẻ đẹp như diễn viên Hàn Quốc nhưng khi sang xứ người cô dâu mới biết chồng mình là một lão già hói đầu, bụng phệ...
Cô dâu Việt thì không phải ai cũng siêng năng, thật thà, nhiều cô không lo tròn bổn phận làm vợ mà chỉ chăm chắm đòi chồng gởi tiền về “báo hiếu” cho cha mẹ, cũng có cô ranh ma ngoại tình, hoặc tìm cách bỏ trốn để tự “bán mình” một lần nữa...
Tóm lại, vì siêu lợi nhuận mà không ít những người làm dịch vụ mai mối đã cố mọi cách để “lắp ghép” những “đôi đũa lệch” với nhau để rồi khi sống chung họ vô cùng thất vọng về nhau, mục đích của hôn nhân không đạt nên bi kịch là điều khó tránh khỏi.
Nhưng việc dịch vụ bất hợp pháp vẫn còn tiếp diễn, mỗi ngày tại Tp.Hồ Chí Minh, các cơ quan chức năng đều khám phá ra những vụ “coi mắt cô dâu” rất man rợ. Chẳng hạn năm, bảy chục cô dâu chủ yếu từ miền Tây lên, được tập hợp lại cho vài người đàn ông ngoại “xem mắt” một cách thô bạo như sờ nắn, bắt cởi quần áo cho họ xem... chẳng khác nào xem một món hàng, một con vật.
Nhưng vấn đề quan trọng ở đây là tại sao những bạn gái xứ ta tự bán rẻ mình đến như vậy? Dù một bộ phận dân cư của nước ta còn nghèo nhưng chưa bao giờ cơ hội thoát nghèo của phái nữ lại nhiều như thời mở cửa hội nhập này. Một người bán ve chai, trồng cỏ, nuôi trùn cũng có thể trở thành triệu phú, tỉ phú thì tại sao có những cô gái lại không biết đến cách đổi đời vững bền, “chắc ăn” nhất chính là lao động, tự mình đổi đời cho mình?
Ảo vọng của những cô dâu Việt
Một yếu tố nữa khiến những bạn gái trẻ muốn lấy chồng ngoại chính là do họ ảo tưởng rằng đó là cuộc đổi đời, chồng ngoại giàu sang, lắm tiền giúp cuộc đời họ sung sướng và có tiền bạc giúp đỡ gia đình.
Họ không hiểu rằng những người đàn ông giàu có, thành đạt thực sự không lấy vợ theo kiểu mai mối như vậy, dù là lấy vợ nước ngoài. Họ có điều kiện để trực tiếp lựa chọn, tìm hiểu người bạn đời, giữa họ có tình yêu hoặc ít ra cũng có sự tương đồng về bề ngoài, nhận thức, văn hóa hay vị trí xã hội chứ không phải là những cô gái quê ít học, không nghề nghiệp... Chỉ khi nào quá... kẹt, (nghèo, tật nguyền, không hấp dẫn được phụ nữ) không có đủ điều kiện tìm vợ nội địa họ mới tìm đến vùng đất nghèo hơn “mua” cho mình một người vợ để có “một người phụ nữ đặt lên giường” như lời nhà văn Trung Quốc Giả Bình Ao nhận định.
Vì từng có một cô dâu Việt ở một tỉnh phía Bắc lấy một người chồng Trung Quốc để có ít tiền giúp cha mẹ xây nhà, rồi khi về nhà chồng cô mới thấy rằng nhà chồng còn nghèo hơn cả nhà mình, số tiền mang qua Việt Nam cưới cô anh chồng phải vay mượn họ hàng mà phải mấy năm sau cô làm lụng cật lực mới trả hết, cô xem như mình “tự kiếm tiền để mua mình”. Được cái là người chồng hiền lành, thương vợ và rất sợ mất vợ, hai đứa con liên tiếp ra đời nên cô không nỡ bỏ trốn về Việt Nam mà thôi.
Trong thời kỳ hội nhập toàn cầu hóa nên sẽ còn có nhiều cuộc hôn nhân giữa người Việt Nam với người nước ngoài, đó cũng là điều tự nhiên theo sự chuyển biến của xã hội. Nếu giữa họ có tình yêu, có sự tương đồng về nhiều mặt và bình đẳng, tự nguyện đến với nhau, không ai “mua” ai. Còn hôn nhân mai mối, thông qua dịch vụ như hiện nay thì đó không chỉ là một nỗi nhục mà còn là bi kịch cho người phụ nữ.