Ðông Nam Á được UNAIDS cho rằng sẽ là khu vực "nóng" với sự gia tăng nhanh chóng các số liệu về nhiễm HV/AIDS, mà trong đó 3 nước Thái Lan, Myanmar, và Cambodia có tỷ lệ nhiễm khá cao (Thái Lan hơn 2%, còn Cambodia và Myanma đang tiến gần 2% tổng số người trong lứa tuổi 15-49).10 Ở Thái, tỷ lệ GMD nhiễm HIV lên đến gần 30-40%.10 Ở Miên (Cambodia), tỷ lệ GMD nhiễm HIV lên đến 45%.14
Nhiều tác giả, qua nhiều Hội nghị dịch tễ học khu vực, và Quốc tế đều rất quan tâm đến vấn đề lây truyền HIV xuyên qua biên giới, và lưu ý rằng cần có những chính sách liên quốc gia, liên biên giới để đáp ứng tốt hơn, nhất là trong khu vực Ðông Nam Á.34 Riêng ở miền Nam và khu vực Ðồng bằng sông Cửu Long, khả năng Cambodia là trạm "trung chuyển" HIV sang Việt Nam đến nay là tình trạng đã rõ.13,24
Thành Phố Hồ Chí Minh là một trong các "ngã tư" giao lưu trong nhiều lãnh vực của các tỉnh miền Nam, cũng như của các nước và trong khu vực; điều này càng rõ rệt hơn kể từ sau thời kỳ kinh tế thị trường, và chính sách mở cửa của Việt Nam.
Mô Hình HIV/AIDS ở Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với mô hình HIV/AIDS ở Thái Lan.13 Ðây cũng là điều lo ngại của nhiều quan sát viên nước ngoài.13,23
Mô hình Thái lan với các đặc trưng: khởi đầu ở nhóm người nghiện ma túy (NNMT) (sóng 1), chuyển sang nhóm người mại dâm (ở Thái Lan có cả nam MD) (sóng 2), sau đó chuyển sang nhóm nam giới vốn là khách hàng của GMD (sóng 3), và hiện nay đã chuyển sang phụ nữ và trẻ em trong cộng đồng dân chúng tổng quát (sóng 4).17,18
Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở Thái Lan được phát hiện năm 1984, và của Việt Nam, năm 1990; còn trường hợp AIDS đầu tiên ở Thái Lan được phát hiện năm 1988, và của Việt Nam, năm 1993. Nhiều tác giả cho rằng Việt Nam hiện đang ở giai đoạn mà Thái Lan đã trải qua cách đây gần 10 năm.13 Có lẽ tại VN đang chuyển từ sóng 1 sang sóng 2, và số liệu còn cho thấy với tốc độ nhanh hơn một chút, vì đã có nhiều trường hợp của sóng 3 và 4 rồi. Chỉ trong 6 tháng đầu năm 1997 số lượng HIV(+) mới phát hiện (lên đến 1.658 người nhiễm HIV19) đã hơn con số của cả năm 1996 (với 1.469 trường hợp).19
Chỉ trong vòng chưa đến một thập kỷ mà sự gia tăng số trường hợp nhiễm HIV từ 1 trường hợp phát hiện được trong năm 1990, sau khi tầm soát hơn 70.000 mẩu máu (trong đó có 2.000 NNMT, 4.500 BN bệnh LTQÐTD, 2.600 GMD, và 38.500 người cho máu), nếu tính đến 1/7/1997, con số đã lên đến 6.228 trường hợp nhiễm HIV cho cả nước (và phần chìm của "tảng băng" đã lên đến 82.000 người nhiễm HIV, cho cả nước). Mặt khác, tình đến cuối năm 1996, nhiễm HIV đã có mặt ở 42 trong tổng số 53 tỉnh thành lúc bấy giờ; và nay với tổng số tỉnh / thành phố là 61, tính đến đến tháng 7/1997, thì số tỉnh thành có người nhiễm HIV là 54/61 = 89%.19 và đặc biệt có hiện tượng "trẻ hoá" trong số những người bị nhiễm HIV, tức là số người dưới 30 tuổi, thâ chí dưới 20 tuổi, chiếm "tỷ trọng" ngày một cao hơn.1,19
Trong năm 1992, chỉ có 10 trường hợp nhiễm HIV trong số 47.000 người được tầm soát trên toàn quốc, mà trong đó đã có đến 8 ca là BN BLTQÐTD chủ yếu phát hiện tai BV Da Liễu TP HCM, và đa số là phụ nữ có hành nghề MD ở Cambodia một thời gian.20 Số lượng xét nghiệm máu lớn hơn nhiều được bắt đầu triển khai từ năm 1993, trong thời gian này, đã có 3 trường hợp lây truyền theo đường chu sinh.21 Ðiều này nói lên rằng ngay từ những thời điểm ban đầu, đuờng lây tình dục của HIV đã "thấp thoáng" ở miền nam, và đến nay, "nói đến AIDS gần như luôn luôn phải nói đến vấn đề tình dục.35
Ðến cuối năm 1996, toàn quốc có 4.961 (trong đó TP HCM có 2.495, chiếm xấp xỉ 50%). Số trường hợp AIDS của toàn quốc tính đến cuối năm 1996 là 643 (trong đó TP HCM có 382, chiếm gần 60%) (tính đến 1/7/1997, trên cả nước, số ca AIDS đã lên đến 860, tích lũy số tử vong: 471). (Bảng 1)
Theo dự đoán của Viện Vệ sinh Dịch Tễ, đến năm 2.000, VN sẽ có khoảng 200.000 - 350.000 trường hợp nhiễm HIV (WHO cho rằng đến 1998, VN sẽ có 580.000), trong đó thành phần bị lây truyền HIV qua đường tình dục chiếm tỷ lệ rất lớn, hơn 85%, và đến năm 2.000 tỷ lệ nam/nữ sẽ là 1/3 (thay vì như năm 1993: 8/1, 1996: 5,5/1).22
Mặc dù, theo báo cáo của do UNAIDS được phổ biến chính thức trong Hội Nghị Quốc Tế lần thứ 11 về AIDS tại Vancouver, Canada, thì "Ở Việt Nam, sự phân phối bao cao su đã gia tăng từ 40 triệu trong năm 1991, lên đến 117 triệu BCS trong năm 1995. Riêng trong năm 1995, 20 trên 117 triệu BCS nói trên đã được phân phối là kết quả của chiến dịch tiếp thị BCS đầy tài năng.10
Như Bảng 2 cho thấy, số lượng bệnh LTQÐTD của GMD , dù có phần giảm thấp dần, hiện nay vẫn còn rất cao. Ðiều này chứng tỏ rằng tỷ lệ GMD có sử dụng BCS trong QHTD thương mại và cả QHTD riêng tư vẫn còn rất thấp. Trong số GMD bị bắt, tỷ lệ VDRL (+) còn rất cao: 20% ở TP HCM , và 30-40% ở Hà Nội.1,5
Nhiều cuộc điều tra xã hội học về KABP (kiến thức - thái độ - niềm tin - thực hành) về HIV/AIDS của GMD, nói chung KABP của nhóm quần thể này còn rất thấp.9 Trong một cuộc điều tra năm 1996, ở những người lao động có đến 40% số người có dùng BCS đã nói rằng họ luôn luôn dùng.26 Mặt khác, 44,9% sôngười lao động này có dùng bao cao su khi quan hệ tinh dục tiền hôn nhân.26 So với 30% số người nghiện ma túy tại TP HCM và 31,9% số người nghiện ma túy tại Hà Nội có dùng bao cao su khi quan hệ tình dục với gái mại dâm.26
Tuy có nhiều thông tin cho rằng GMD ngày càng biết sử dụng BCS nhiều hơn, và họ cũng học được kỹ năng thuyết phục khách làng chơi sử dụng BCS.27 Tuy nhiên, những cuộc phỏng vấn gần đây của chúng tôi với một số bệnh nhân BLTQÐTD, và cả những đối tượng NCMT, nhận thấy nếu khách hàng không chủ động sử dụng BCS, thì số lượt GMD biết chủ động gợi ý dùng BCS vẫn còn rất ít. Và rất nhiều người nước ngoài, khi thử hỏi GMD "chạy xe Dream" rằng nếu không dùng BCS họ sẽ được trả tiền cao hơn, hầu như tất cả đều đồng ý.
Mặt khác, trong những quần thể khác, đặc biệt lớp trẻ, do còn quá trẻ nên ta chưa "muốn" đưa đưa thông tin và dạy kỹ năng dùng BCS đến cho họ, hệ quả là số thiếu niên mang thai / phá thai / bị bệnh LTQÐTD vẫn tiếp tục gia tăng một cách đáng báo động; điều này cũng nói lên rằng họ chưa biết sử dụng BCS; hoặc, trong một số trường hợp đặc biệt, nhưng đầy hiểm hoa là do "không còn gì để mất" đối với những thiếu niên có "chơi heroin", họ vừa lăng chạ mức độ cao vừa không dùng BCS, nên tỷ lệ nhiễm HIV qua đường tình dục rất đáng quan tâm; như tại Trung Tâm GD&DN TN Bình Triệu, trong một đợt thử máu gần đây (tháng 8, 1997) đã phát hiện 14/23 ca thiếu niên nghiện heroin đến trung tâm này để cai nghiện, có HIV dương tính; và chính những thiếu niên này cũng không ngờ.27
Dù sao, cũng có tiến bộ trong việc tuyên truyền sử dụng BCS. Nhưng rõ ràng tỷ lệ sử dụng vẫn còn chưa cao. Cũng có nghĩa rằng hiểm hoạ vẫn còn treo phía trước.
Trong giai đoạn đầu của đại dịch ở một quốc gia, phát triển của dịch thường gắn với nhóm dân cư có nguy cơ nhiễm và lây truyền bệnh cao (ma túy, mại dâm ...) rồi từ đó qua đường tình dục, đường máu, xâm nhập vào cộng đồng, phát triển thành đại dịch trong cả nước.1,22
Hiện nay, theo nhiều nguồn số liệu, số người nghiện ma túy (NNMT) của cả nước vào khoảng 175.000 - 200.000 người.29 Như chúng ta đã biết, trong giai đoạn đầu của dịch HIV ở Việt Nam, tỷ lệ nhiễm HIV ở người nghiện ma túy (NNCMT) chiếm phần lớn (hơn 90%), và cho đến năm 1997, tỷ lệ này vẫn cao nhưng đã giảm dần xuống xấp xỉ 71% (cho cả nước, và vẫn 81% ở TP HCM, tính đến cuối năm 1996).1,2,19
Một chuyển hướng đáng chú ý là xu hướng phát triển nghiện chích ma túy (NCMT) ở thanh thiếu niên, nhất là trong trường học. Mức độ cao đến mức "đáng báo động đỏ".30 Trước đây, NNCMT nhiễm HIV thuộc nhóm tuổi khá cao (40-49), nay lứa tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất là 30-39, kế đó là 20-29, và số 13-19 đang gia tăng.1,36
Một số số liệu điều tra về tỷ lệ NNMT có quan hệ tình dục (QHTD) với gái mại dâm khá cao. Như cuộc điều tra của Viện Pasteur Nha Trang năm 1996, ở Qui Nhơn và Bình Ðịnh, cho thấy 94,6% đã có quan hệ tình dục, 41,7% QHTD ngay sau khi chích, 45,8% QHTD với GMD, 56,2% không dùng bao cao su trong lần QHTD gần đây nhất.1 Các số liệu tương tự cũng đã được các tác giả L.N. Yến, N.T. Hiển điều tra ở Hà Nội, TP HCM, báo cáo.2,4 Cùng với số liệu về tình hình bệnh LTQÐTD của NNMT, chiếm xấp xỉ 18% đến 40% tùy giai đoạn và loại bệnh.2,4
Nói chung, khác với sự lầm tưởng của nhiều người, NNMT có QHTD và nhất là với GMD, với tỷ lệ cao, và tỷ lệ mắc BLTQÐTD cũng khá cao. Quần thể này vừa là ngòi nổ của sóng đầu tiên, vừa tiếp tục là kho thuốc đạn của dịch HIV/AIDS trong tương lai tại Việt Nam.
Một mặt, không thể như số liệu ước tính của một quan sát viên quốc tế, con số GMD ở Việt Nam lên đến 300.000 - 600.00026, một con số vô lý, vì đem chia con số này cho tổng số phụ nữ trong lứa tuổi 16-34, thì cứ 9 người trong lứa tuổi này sẽ có 1 người là GMD!
Theo số liệu thống kê của Cục Phòng Chống Tệ Nạn Việt Nam, con số ước tính từ các địa phương là 56.600.7
Con số vừa kể, theo một số tác giả, vẫn còn nhỏ, chưa được nhiều người đồng ý lắm. Con số hợp lý hơn, là khoảng 200.000 cho toàn quốc, và 40.000 - 80.000 cho TP HCM.28 Hằng năm, BV DL chỉ có thể tiếp cận được khoảng 1.000 - 2.000 GMD tập trung trong Trung Tâm Giáo Dục và Dạy Nghề Phụ Nữ.25
Thực tế, giống như tại nhiều nước, như ở Thái Lan, người ta sẽ chẳng bao giờ biết được số GMD này một cách chính xác vì nhiều lý do.
Vấn đề của chúng ta "rắc rối" ở chỗ: MD là hoạt động bất hợp pháp, được "che dấu" với nhiều hình thức và mức độ từ tinh vi đến lộ liễu; GMD luôn đóng nhiều vai khác nhau (dạng "không chuyên nghiệp") từ "gái bao", "bồ", nhân viên massage, "tiếp viên" ..., đến mức chuyên nghiệp ở các "động", hay "đứng đường", hoặc "chạy xe ngoài đường".... Ðó là chưa kể số GMD hành nghề ở Miên, Thái, theo ước tính lên đến 50.000 đến 60.00 người,19 sau khi hồi hương, không ai dám bảo đảm rằng họ không "tiếp tục hành nghề" và gieo rắc HIV cho cộng đồng.19,24
Vấn đề đáng quan tâm lại là khầu hiệu "tình dục an toàn hơn" rất khó đề ra được đối với những phụ nữ này, vì vừa không biết ai để tiếp cận vừa do "nhân sự" luôn biến thiên (liên tục bổ sung, chu chuyển), luôn cần được tiếp cận mới. Khả năng tiếp cận với GMD trên đường phố, hoặc ngụy trang trong
các hoạt động trá hình khác, của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGOs), và của các đoàn thể quần chúng của ta nhất là Thành Hội Phụ Nữ (kể cả các Quận/Huyện Hội), Ðoàn TNCS ... hãy còn rất hạn chế.32,33
Một khuynh hướng đáng ngại trong quần thể GMD là số GMD vị thành niên chiếm đến hơn 12%-14% ở TP HCM;7 còn trong quần thể GMD hành nghề ở Miên, tỷ lệ thiếu niên lên đến 30%-35%.9,19 Tương tự, theo khảo sát xã hội học của Trung Tâm Xã Hội Học, Học Viện Chính Trị Quốc Gia TP HCM và Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam, tại Cần Thơ, và Vũng Tàu - Côn Ðảo, tỷ lệ số GMD vị thành niên xấp xỉ 10% (tăng dần từ 2,5% năm 1989 lên đến 11,6% năm 1996), và hơn 30% GMD nói chung có quan hệ tình dục lần đầu từ khi 13-16 tuổi.1 Ðoàn TNCS TP HCM và HN cho biết con số GMD 14-18 tuổi chiếm 34% tổng số mẫu nghiên cứu.1
Trình độ học vấn của GMD cũng rất thấp; theo báo cáo hằng năm của Trung Tâm Giáo Dục và Dạy Nghề Phụ Nữ,7 trên 60% chưa qua cấp I, trong đó 24,5% là mù chữ.7
Nhiều bài báo, và điều tra đăng trên các báo phổ thông như Tuổi trẻ, Thanh Niên hay Phụ Nữ đã khẳng định đường dây đưa nữ thiếu niên Việt Nam sang Miên (Cambodia) hành nghề MD.19,20,24 Nhiều báo cáo của một số tỉnh biên giới Miên đã khẳng định nhiều cô GMD trở về VN từ Miên đã bị nhiễm HIV.19,24 Những ca nhiễm HIV đầu tiên phát hiện tại BV DL TP HCM (1992) cũng là GMD có hành nghề một thời gian tại Miên.20
Các công trình nghiên cứu dịch tễ học phân tử HIV của Viện Pasteur TP HCM, Viện Pasteur Paris, BV Lao Phạm Ngọc Thạch6,30 đã khẳng định HIV típ E chiếm đại đa số các trường hợp dương tính tại Việt Nam, mà típ E này có liên quan về cấu trúc với típ E của Thái Lan,31 như phần tổng quan ở trên đã đề cập. Ðiều này càng củng cố cho giả thuyết cho rằng Việt Nam bị du nhập HIV típ E từ Thái Lan trực tiếp hoặc thông qua Miên rồi vào Việt Nam một cách "đại trà", và típ này có khuynh hướng lây truyền nhanh chóng qua đường tình dục.6,31
Những số liệu sau đây được sưu tập để tham khảo thêm, đồng thời minh hoạ cho phần 1 và 2 nói trên, nhiều ý đã được đề cập và trích dẫn, chúng tôi chỉ nói thêm khi thấy cần thiết.
Bảng 2: Tỷ lệ phần trăm (%) mắc bệnh LTQÐTD ở đối tượng "nguy cơ cao" tại TP HCM (GMD)*,5
Ðối Tượng GMD |
NĂM | ||||||
1990 |
1991 |
1992 |
1993 |
1994 |
1995 |
1996 | |
153% (983) |
101% (1009) |
96% (825) |
78% (1163) |
68% (1271) |
70% (1136) |
59% (1100) |
Bảng 3: Tỷ lệ nhiễm HIV ở đối tượng "nguy cơ cao" tại TP HCM9
Ðối tượng |
NĂM | |||
1993 |
1994 |
1995 |
1996 | |
Gái mại dâm |
0,4% (4.484) |
0,5% (1.759) |
1,0% (1.756) |
0,8% (1.544) |
Người nghiện CMT |
25% (1733) |
43% (2102) |
42% (1264) |
37% (1199) |
Bảng 4: Phân bố nhóm tuổi các trường hợp nhiễm HIV ở Việt Nam từ 1993-19969
|
Phân bố theo năm | |||||||
Nhóm |
1993 |
1994 |
1995 |
1996 | ||||
Tuổi |
Số người |
Tỷ lệ |
Số người |
Tỷ lệ |
Số người |
Tỷ lệ |
Số người |
Tỷ lệ |
13-19 |
27 |
2,3 |
34 |
2,8 |
42 |
3,2 |
65 |
5,0 |
20-29 |
168 |
14,5 |
253 |
20,8 |
298 |
22,6 |
397 |
30,4 |
30-39 |
619 |
53,4 |
541 |
44,4 |
501 |
38,0 |
392 |
30,0 |
40-49 |
261 |
22,5 |
292 |
24,0 |
397 |
30,1 |
377 |
28,9 |
> 50 |
19 |
1,6 |
33 |
2,7 |
29 |
2,2 |
28 |
2,1 |
Bảng 5: Phân bố giới tính của người nhiễm HIV trên toàn quốc theo thời gian.9
|
Phân bố theo năm | |||||||
Giới tính |
1993 |
1994 |
1995 |
1996 | ||||
|
Số người |
Tỷ lệ |
Số người |
Tỷ lệ |
Số người |
Tỷ lệ |
Số người |
Tỷ lệ |
Nam |
1017 |
87,7 |
1010 |
82,9 |
1058 |
80,3 |
1038 |
79,65 |
Nữ |
115 |
9,9 |
188 |
15,4 |
222 |
16,8 |
253 |
19,4 |
Tỷ lệ Nam/Nữ |
8,9:1 |
|
5,4:1 |
|
4,8:1 |
|
4,1:1 |
|
Bảng 6: Tình hình bệnh lây truyền qua đường tình dục ở TP Hồ Chí Minh, 1993-1996, số liệu tính theo số người đến cơ sở y tế nhá nước, tỷ lệ 1/100.000 dân
|
Phân bố theo năm | |||
BỆNH LTQÐTD |
1993 |
1994 |
1995 |
1996 |
Số liệu ở TP HCM |
15.840 |
13.635 |
20.312 |
13.361 |
Ước tính tổng số của TP HCM |
150.000 |
136.000 |
200.000 |
133.000 |
Tỷ lệ /100.000 dân |
3 |
2,7 |
4 |
2,6 |
Bảng 7: Tỷ lệ nhiễm HIV ở đối tượng "nguy cơ thấp" tại TP HCM13
Ðối |
NĂM | |||
Tượng |
1993 |
1994 |
1995 |
1996 |
1. Người cho máu có tiền |
0,4% (21.430) |
0,6% (1.556) |
0,2% (17.424) |
0,3% (21.867) |
2. Người cho máu |
- |
- |
0,3% (10.137) |
0,4% (15.977) |
3. Thai phụ trước đẻ |
0% (1.108) |
0,4% (22.457) |
0,1% (1.748) |
0,2% (3.485) |
4. Nghĩa vụ quân sự |
- |
- |
- |
0,2% (928) |
■ Bệnh LTQÐTD và nhiễm HIV ở đối tượng "nguy cơ cao"
* Do số liệu không liên tục, chúng tôi chí có tỷ lệ bệnh LTQÐTD cuả những năm trước 1993, xấp xỉ 30%-40% tổng số người NCMT,6,7 còn những năm sau này, theo nhiều công trình và phương pháp điều tra khác nhau, tỷ lệ này xấp xỉ 20%.8,1 Rõ ràng, với tỷ lệ bệnh LTQÐTD cao và rất cao (GMD) như Bảng 2, và 3 ở trên thì khả năng sẽ bộc phát một cao trào nhiễm HIV là điều rất đáng ngại.
Theo bảng 4, khuynh hướng nhiễm bệnh sớm hơn đang thể hiện ngày càng rõ, khuynh hướng này phù hợp với sự "trẻ hóa" "đội ngũ" những người MD và NMT. Mặt khác nó cũng phù hợp với khuynh hướng QHTD sớm hơn của các nước đã hội nhập vào "kinh tế thị trường" như ở Phillipines, Thái Lan.38 Chính những người trẻ tuổi là nhóm người sẽ hứng chịu dịch AIDS ở Việt Nam.39
Tính theo số liệu HIV toàn quốc, thì tỷ số nam/nữ biến thiên từ 8/1 trong năm 1993, giảm xuống 4,1/1 trong năm 1996. Tổ chức Y tế Thế Giới ước tính rằng trước năm 1998 (Viện Vệ sinh DT Hanoi: năm 2000), tỷ số này sẽ là 1/3. Nếu đúng theo ước đoán này, quả Việt Nam sẽ lập lại đúng tình trạng HIV/AIDS của Thái lan hiện nay.22
Với số liệu trên đây, cùng với sự ước tính của Bộ Y Tế, chỉ có 5-10% tổng số bệnh nhân BLTQÐTD đến khám tại cơ sở Y tế nhà nước, ta có thể nhân số liệu trên lên 10-20 lần, kết quả sẽ là con số rất đáng ngại: 3 - 8 / 10.000 dân có bệnh LTQÐTD.
Cùng với số lượng bệnh lây truyền qua đường tình dục cao, tỷ lệ sử dụng bao cao su còn thấp, khuynh hướng rõ rệt của sự lây truyền HIV qua đường tình dục từ các nhóm nguy cơ cao lan sang quần thể dân chúng tổng quát, và rồi qua những mối QHTD tiền / ngoài hôn nhân với nhau, dịch HIV chắc chắn sẽ bùng lên dữ dội. Khả năng này quả là điều khó tránh khỏi.
Với số liệu như Bảng 7, có thể chúng ta sẽ cho rằng tình hình chưa nghiêm trọng, vì so với một số quốc gia khác như Thái Lan có con số tương ứng cao hơn rất nhiều. Như chúng ta đã biết, các quần thể trong bảng 7 nói lên tình trạng chung của dân số tổng quát, thường chậm hơn khuynh hướng chung một thời gian, và sẽ rộ lên trong tương lai, giống như ở các nước có tỷ lệ HIV/AIDS đã cao thành dịch.
Chính qua số liệu này, nhiều người nước ngoài lạc quan cho rằng Việt Nam chúng ta còn cơ may xoay chuyển tình thế, và hiện nay, rất nhiều nước có ý muốn giúp đỡ chúng ta làm giảm thiểu nguy cơ này.
Mong rằng những cố gắng hiện nay và tương lai gần của TP HCM, và miền nam (và cả nước) sẽ góp phần ngăn chặn được hiểm họa này.
BS Trần Thịnh Hội Da liễu tại TP Hồ Chí Minh, Việt Nam
1. Lê Diên Hồng. Kết hợp phòng chống HIV/AIDS với chống tệ nạn xã hội. AIDS và cộng đồng. Uỷ Ban quôc gia phòng chống AIDS. Số 2 (14), 5-1997: 2-3.
2. Nguyễn Trần Hiển. Kiến thức - Thái độ - Thực hành về HIV/AIDS của những người nghiện ma túy ở TP Hồ Chí Minh. Báo cáo tại Hội Thảo: "Biện pháp can thiệp làm giảm nguy cơ nhiễm HIV ở người ma túy". TP HCM, 12/ 1996.
4. Lê Ngọc Yế, và CS. Nghiên cứu một số đặc diểm dịch tễ học và miễn dịch tế bào ở những người nghiện ma tuy tại Quận Ðống Ða. Tạp chí "AIDS và Cộng Ðồng",1996,1:36.
5. Báo cáo hằng năm tình hình bệnh LTQÐTD. 1986 - 1996. Bệnh Viện Da Liễu TP HCM.
6. Nguyễn Thị Thanh Thủy. Nguy cơ lây truyền HIV qua đường tình dục tại Việt Nam.Bản Tin AIDS. Viện Pasteur TP HCM. 5/1997.
7. Báo cáo Tổng kết hằng năm của Trường Giáo Dục và Dạy Nghề Phụ Nữ Thủ Ðức. Năm 1994, 1995.
8. Chi Cục Phòng Chống Tệ Nạn Xã Hội TP HCM, Phụ lục. 1996.
9. Ủy Ban Quốc Gia Phòng Chống AIDS. Bản Tin Nhanh HIV/AIDS. Các Số 15, 16, 17, 18 , năm 1997..
10. UNAIDS (JOINT UNITED NATIONS PROGRAMME ON HIV/AIDS). FACT SHEET 1 JULY 1996(Phát hành trong Hội nghị Quốc tế về AIDS lần thứ 11, Vancouver, Canada 7/96
11.UNAIDS. Quan điểm của UNAIDS về cách làm giả thiểu khả năng dễ bị mắc bệnh HIV/AIDS của phụ nữ. FACT SHEET 1 JULY 1996
12. Nguyễn Hữu Chí. Nhiễm HIV/AIDS. NXB Thành Phố Hồ Chí Minh, 1996:45,40.
13. Christina P. Lindan, Trương Xuan Liễu, Lê Trường Giang, Vũ Ðình Lập, Nguyễn Văn Thục, Trần Thịnh, Peter Lurie and Jeffrey Mandel. Rising HIV infection rates in Ho Chi Minh City herald AIDS epidemic in Vietnam. Bài báo cáo tại Hội Nghị Quốc Tế vể AIDS, Vancouver, Canada, 7/1996.
14. UNDP. Tình hình mãi dâm ở Cambodia.
15. Báo Tuổi trẻ. Tháng 3, 1997. Những trường hợp đã nhiễm HIV điều trị tại Trung Tâm Bệnh nhiệt đới. Kim Sơn.
16. The Save the Children Fund. The HIV/AIDS Prevention and Management Program in Ho Chi Minh City. 1995.
17. Bộ Y tế Công Cộng Thái Lan. Kế Hoạch Trung Hạn Phòng Nhiễm HIV/AIDS. 1995 (Bản tiếng Anh).
18. Lê Ngọc Yến. Bài học từ việc phòng bệnh LTQÐTD tại Thái Lan. AIDS Và Cộng Ðồng. Số 3/97 Tháng 6, 1997: 16.
19. Vietnam News. HIV spreading rapidly throughout the country. Tuesday, August 19,1997: 1.
20. Vũ Hồng Thái và Trần Thịnh. Báo cáo đầu tiên về những trường hợp nhiễm HIV phát hiện tại BV Da Liễu TP HCM. Báo cáo trong Hội Nghị KHKT B2, BV DL, tháng 9, 1993.
21. UB AIDS TP HCM. Báo cáo Tổng kết địng kỳ 6 tháng - 1 năm. Các năm 1994, 1995, 1996.
22. Le Kinh Duệ. Tình hình nhiễm HIV/AIDS của Việt Nam. Báo cáo trong Hội Nghị Quản Lý Bệnh LTQÐTD năm 1994, Viện Da Liễu, Hà Nội.
23. CARE International. Nguy Cơ SIDA ở Việt Nam. Chuyên khảo số 1. Tháng 6, năm 1993.
24. Hương Ly và Võ Khối. Gái mại dâm ở Phnom Penh và nguy cơ lây nhiễm HIV ở Việt Nam. Báo Thanh Niên, 15/08/1997.
25. Trung Thu. Diễn biến mới của Ðại dịch HIV/AIDS. Báo Khoa Học Phổ Thông, số 746, 1997: 6
26. Ðặng Hồng Tuyên và trần Thịnh. Kết quả điều tra KABP của 396 người lao động ở ba cảng Sài Gòn, Bình Ðông, Trần Kiểu. Báo cáo tại Hội nghị KHKT Da Liễu B2, quí 2, 1996, tại BV Da Liễu TP HCM, ngày 25/06/1997.
27. Nguyễn Trung Trinh. Phát biểu trong Hôi Thi AIDS và Tệ nạn xã hội. LÐLÐ TPHCM.
28. Nguyễn Thị Xuân Ðào. An assessment of the peer support project in the HIV/AIDS prevention for commercial sex workers of HCMC, Viet Nam. Thesis for diploma of Master of Social work. July, 1995.
29. Nguyễn Hồng Chanh. Hãy cứu con em mình ra khỏi hiểm hoạ ma túy. Báo Sài Gòn Giải Phóng, 27/11/1996..
30. Huỳnh Dũng Nhân. Ma Túy. Báo Ðộng Ðó! Báo Lao Ðộng 21/11/1997.
31. Rachel A. Royce et al. Sexual transmission of HIV. The New England Journal of Medivine, V. 336, N. 15, 1997: 1072-8
32. Báo caó của SCF/UK. Một số kinh mghiệm trong tiếp cận GMD. Tài liệu phổ biến nội bộ.
33. Báo cáo của đội tiếp cận của Thành Hội Phụ Nữ. Tổng kết 2 năm hoạt động của đội tiếp cận đồng đẳng. 1996. Tại Văn Phòng Thành Hội Phụ Nữ.
34. Hội Nghị phòng chống nhiễm HV/AIDS xuyên biên giới, Bang Kok, 1995, 1997. Tài liệu đươc trình bày trong cuộc họp HAG (HIV/AIDS Action Group), tại TP HCM 2,1997.
35. Nguyễn Xuân Hải, UNICEF Việt Nam, phần trình bày và phát biểu trong SHKHKT về Giáo dục Sức khoẻ Tình Dục. TTTT GDSK, tháng 9, 1997.
▪ Heroin, AIDS lên web (08/04/2003)
▪ Bom nổ chậm của Châu Á (13/10/2002)
▪ Ngày Thế giới Phòng chống AIDS: Các tổ chức sức khoẻ thế giới đặt mục tiêu chống AIDS (01/12/2003)
▪ Nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS 1.12: Châu Á có nguy cơ theo gót Châu Phi (01/12/2003)
▪ "Tảng băng chìm" HIV/AIDS đang bắt đầu nổi lên (25/11/2003)
▪ Tình trạng nạo phá thai ở vị thành niên: Hậu quả của sự "tế nhị" (10/07/2003)
▪ "Du lịch tình dục trẻ em" đã tràn sang VN (02/07/2003)
▪ Những đứa trẻ trong vòng vây tội lỗi (18/01/2003)
▪ Báo động lây nhiễm HIV/AIDS (13/01/2003)
▪ AIDS - mối đe dọa lớn cho sự ổn định toàn cầu (28/11/2002)