Thử nghiệm HIV thường được tiến hành theo các bước tuần tự sau đây. Trước hết là thử bằng phương pháp ELISA (Enzyme Linked Immunoabsorbent Assay) để phát hiện kháng thể chống lại HIV trong mẫu máu. Nếu kết quả thử nghiệm là âm tính, bệnh nhân sẽ được báo cho biết là không nhiễm HIV. Nếu kết quả là dương tính, thì tối thiểu một thử nghiệm ELISA (của một hãng sản xuất khác) phải được tiến hành trong cùng mẫu máu. Khi kết quả vẫn là dương tính, phải tiến hành một phương pháp thử nghiệm khác có tên Western blot. Western blot là một phương pháp phân tích tốn kém và mất nhiều thời gian so với ELISA. Nếu kết quả thử nghiệm bằng Western blot vẫn là dương tính, bệnh nhân sẽ được báo là đã nhiễm HIV. Trong một số trường hợp, các nhà khoa học cần thêm một mẫu máu thứ hai để thử nghiệm bằng Western blot trước khi thông báo "kết quả sau cùng" cho bệnh nhân. Ðó là quy trình chung về thử nghiệm HIV. Một vài nước có thể tiến hành các bước khác với quy trình trên chút ít, nhưng nguyên lý thì giống nhau.
AIDS (Acquired Immune Deficiency Syndrome) được định nghĩa là hội chứng mất khả năng đáp ứng miễn dịch của tế bào trung gian do tình trạng giảm số lượng của một vài tế bào lympho T. Không giống các bệnh khác, AIDS không biểu hiện một triệu chứng bất biến hay cụ thể nào. Một khi hệ thống miễn nhiễm bắt đầu có vấn đề, hàng loạt các biến chứng sẽ xảy ra và làm cơ thể dễ bị nhiễm trùng (có 26 loại nhiễm trùng khác nhau). Nếu một bệnh nhân có kết quả thử nghiệm HIV dương tính và bị một trong số 26 nhiễm trùng này, họ sẽ được chẩn đoán là bị AIDS. Do đó, AIDS là giai đoạn cuối cùng của nhiễm trùng do HIV gây ra. HIV là một loại "retrovirus", tức là loại virus có chứa RNA có thể cấy các chất liệu di truyền vào tế bào của con người và ở đó vĩnh viễn. Có hai loại HIV: (a) Loại HIV-1 được phát hiện vào năm 1983 là nguyên nhân chính của bệnh AIDS trên thế giới hiện nay; (b) Loại HIV-2 được phát hiện vào năm 1987 ở các phụ nữ sống tại các nước Tây châu Phi. HIV-2 rất hiếm thấy ở Mỹ, châu Âu và có vẻ không nguy hiểm như HIV-1 vì chúng tái sản sinh một cách chậm chạp.
Hiện nay y khoa chưa có phương pháp chữa trị AIDS. Vấn đề tìm kiếm một phương pháp chữa AIDS có thể minh họa và so sánh với căn bệnh giang mai vào những năm đầu thế kỷ 20. Thời đó, bệnh giang mai cũng được thế giới quan tâm đặc biệt. Cuối cùng giang mai cũng được đẩy lùi - nhưng không phải bằng cách thay đổi thái độ và thực hành tình dục - mà bằng việc khám phá Penicillin, một loại thuốc vừa rẻ vừa có hiệu quả cực kỳ cao.
Ðiều khác biệt quan trọng giữa giang mai và AIDS là vi khuẩn gây bệnh. Khi HIV tự tái sinh, chúng tái sinh rất nhiều HIV mới, đến nỗi khi một bệnh nhân được chẩn đoán có AIDS thì trong cơ thể đã có hàng tỷ HIV. Một số thay đổi hay đột biến làm cho HIV yếu đi và dễ bị hệ thống miễn nhiễm tấn công; Nhưng một số khác lại khiến HIV mạnh lên, làm chúng có khả năng trốn tránh hệ thống miễn nhiễm. Sự tiến hóa theo mô hình Darwin này của virus làm hệ thống miễn nhiễm thiếu khả năng nhận dạng và phản ứng; Theo thời gian chúng có khả năng đề kháng cao chống lại thuốc. Tính trung bình, thời gian "âm ỉ" từ lúc bị nhiễm HIV đến khi có bệnh AIDS là 12 năm; Tuy nhiên đây không phải là một thời gian âm ỉ thật sự vì sự chống trả giữa HIV và hệ thống miễn nhiễm xảy ra liên tục, dù phần thắng có vẻ nghiêng về HIV.
Tuy chưa có phương pháp chữa trị AIDS, nhưng các công trình nghiên cứu đã mở ra nhiều hy vọng. Những thuốc can thiệp vào khả năng (hay nói đúng hơn là ngăn chặn sự tái sinh của virus đã được phát triển). Do virus có khả năng đề kháng những thuốc này nên một phương án chữa trị được đề ra là dùng nhiều thuốc cùng lúc, còn gọi một cách ví von là phương pháp "trị liệu cocktail". Phương pháp này (như dùng thuốc Didanosine và Zidovudine) có thể duy trì cuộc sống bệnh nhân trong một thời gian nhưng vẫn không chữa dứt được bệnh. Tuy nhiên phương pháp "cocktail" tương đối đắt tiền, thường gây ra một số phản ứng phụ và biến chứng cho bệnh nhân, như đau, nóng bừng, rụng tóc và lá lách bị phình ra một cách nguy hiểm.
Ðối với những người có nguy cơ bị AIDS hay HIV cao, thử nghiệm HIV đóng một vai trò quan trọng trong việc quản lý bệnh. Dù khả năng chữa khỏi rất hạn chế, nhưng phát hiện nhiễm HIV sớm có thể ngăn ngừa tỷ lệ người mắc bệnh. Không giống như trường hợp của ung thư vú hay ung thư tuyến tiền liệt (mà thử nghiệm không ngăn chặn được căn bệnh), thử nghiệm HIV có thể ngăn ngừa bệnh bộc phát và làm giảm tỷ lệ tử vong, vì HIV có thể lây truyền từ người này sang người khác. Nếu được phát hiện sớm, người bị nhiễm nên khai báo tình trạng bệnh tật của họ với vợ hay chồng hoặc người mà họ có quan hệ tình dục để phòng ngừa sự lây lan.
Chú thích ảnh: Hình ảnh virus HIV đang xâm nhập vào tế bào người.
▪ Heroin, AIDS lên web (08/04/2003)
▪ Bom nổ chậm của Châu Á (13/10/2002)
▪ Ngày Thế giới Phòng chống AIDS: Các tổ chức sức khoẻ thế giới đặt mục tiêu chống AIDS (01/12/2003)
▪ Nhân Ngày Thế giới phòng chống AIDS 1.12: Châu Á có nguy cơ theo gót Châu Phi (01/12/2003)
▪ "Tảng băng chìm" HIV/AIDS đang bắt đầu nổi lên (25/11/2003)
▪ Tình trạng nạo phá thai ở vị thành niên: Hậu quả của sự "tế nhị" (10/07/2003)
▪ "Du lịch tình dục trẻ em" đã tràn sang VN (02/07/2003)
▪ Những đứa trẻ trong vòng vây tội lỗi (18/01/2003)
▪ Báo động lây nhiễm HIV/AIDS (13/01/2003)
▪ AIDS - mối đe dọa lớn cho sự ổn định toàn cầu (28/11/2002)