Mang thai ở tuổi vị thành niên qua một số nghiên cứu tại việt nam
Các Website khác - 25/03/2004

11/7 - ngày dân số thế giới

Mang thai ở tuổi vị thành niên qua một số nghiên cứu tại việt nam

Nguyễn Mỹ Hương*

Vị thành niên là nhóm đối tượng rất dễ có những hành vi có nguy cơ cao như tham gia vào hoạt động tình dục từ khi còn rất trẻ, không sử dụng tránh thai khi sinh hoạt tình dục. Tuy hiểu biết về các biện pháp tránh thai trong nhóm đối tượng này khá cao nhưng tỷ lệ sử dụng lại rất thấp mà một trong những nguyên nhân chính là quan niệm sai lầm về tình dục, tình yêu. Thêm vào đó, các yếu tố gia đình và cộng đồng, tác động của nền kinh tế thị trường, một số tác động tiêu cực của các phương tiện thông tin cũng có tác động rất lớn đến mang thai vị thành niên.

i. mở đầu

Vị thành niên là giai đoạn chuyển đổi quan trọng từ thiếu niên sang người lớn. Chất lượng của cuộc sống tương lai vị thành niên phụ thuộc nhiều vào những cơ hội được tận dụng để phát triển nhân cách cá nhân như học tập, có công ǎn việc làm để có thể tránh được những vấn đề phát sinh ra do quan hệ tình dục như mang thai ngoài ý muốn, bắt buộc phải nghỉ học hoặc các tác động nghiêm trọng đến sức khỏe (Bongaarts và cộng sự, 1998).

Thực tế hiện nay, tại nhiều nước thường không có những định nghĩa rõ ràng về giai đoạn vị thành niên này. Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), vị thành niên là một giai đoạn chuyển tiếp của cuộc đời của từng cá nhân. Đó là giai đoạn mà:

ơ Sự phát triển cá nhân kể từ khi những đặc tính giới tính thứ hai bắt đầu xuất hiện cho đến khi những đặc tính đó hoàn toàn hoàn chỉnh;

ư Sự phát triển tâm lý và những đặc điểm cá nhân từ một đứa trẻ thành một người trưởng thành;

đ Sự chuyển tiếp từ giai đoạn phụ thuộc đến giai đoạn hoàn toàn độc lập về kinh tế và xã hội (WHO, 1975).

Giai đoạn hình thành và phát triển vị thành niên chịu tác động rất lớn bởi những yếu tố kinh tế, vǎn hóa, xã hội đặc trưng. Do phong tục tập quán ở những môi trường vǎn hóa xã hội khác nhau rất khác nhau nên rất khó đánh giá vị thành niên theo khía cạnh vǎn hóa của các quốc gia. Tuy nhiên, vị thành niên cũng có những đặc tính chung như tính tò mò, ảnh hưởng của bạn đồng lứa đối với các vấn đề tình dục, sự thiếu hiểu biết về thụ thai và sinh sản cũng như tránh thai. Theo các nhà nhà nghiên cứu thì đây là những yếu tố ảnh hưởng đến mang thai vị thành niên. Tuy nhiên, trong những xã hội khác nhau thì sự ảnh hưởng của những yếu tố này đến vị thành niên cũng khác nhau (UN, 1998).

Hiện nay, hiện tượng vị thành niên mang thai đang là một vấn đề xã hội của mọi quốc gia trên toàn thế giơí. Vị thành niên thường lớn lên trong những môi trường mà những thông tin về quan hệ tình dục thường lẫn lộn và đôi khi có tác dụng tiêu cực. Hậu quả là khi phải có những quyết định liên quan đến tình dục, họ thường chọn những giải pháp không thông minh và có hại cho sức khỏe. Đây là những vấn đề bức xúc của cả những nước công nghiệp phát triển và những nước đang phát triển. Có rất nhiều yếu tố có đóng góp quan trọng vào hành vi tình dục và mang thai vị thành niên như tuổi dậy thì sớm hơn, tuổi kết hôn muộn hơn, hiểu biết về tình dục và sức khỏe sinh sản... Đằng sau những yếu tố này là một số yếu tố khác như a) những hành vi cá nhân có nguy cơ cao; b) tác động của gia đình và cộng đồng; và c) giáo dục tình dục và thông tin đại chúng. Tuy những yếu tố này có ảnh hưởng khác nhau đến những nhóm vị thành niên khác nhau nhưng nếu không nhận được sự quan tâm đúng mức của những nhà thiết lập chính sách và quản lý các chương trình sức khỏe sinh sản thì bất cứ đối tượng vị thành niên nào cũng có thể bị tác động và hậu quả cuối cùng sẽ việc mang thai không mong muốn. Báo cáo này sử dụng kết quả của một số nghiên cứu định tính và định lượng đã được thực hiện ở Việt Nam trong thời gian qua để phân tích tác động của những yếu tố trên đến mang thai vị thành niên. Đây là những nghiên cứu thử nghiệm, không đại diện cho thanh niên Việt Nam, nhưng kết quả từ những nghiên cứu này cho thấy ảnh hưởng của những yếu tố trên đến những nhóm vị thành niên đặc trưng như thế nào và có thể tác động như thế nào đến những nhóm đối tượng khác.

Số liệu của Tổng điều tra dân số nǎm 1999 cho thấy tỷ lệ dân số vị thành niên Việt Nam tính theo nhóm tuổi từ 10-14 (theo qui định của WHO) là 22,7%. Nếu mở rộng khái niệm này đến nhóm tuổi 20-24 thì dân số vị thành niên chiếm một phần ba dân số Việt Nam. Với tỷ lệ này, Việt Nam trở thành một nước có tỷ trọng dân số vị thành niên đứng vào hàng cao nhất so với các nước trong khu vực châu á (Đ.N.Anh, 2000). Với một tỷ trọng lớn như vậy, vị thành niên là nguồn động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên nếu không được quan tâm đúng mức và có được cơ hội học hành, có công ǎn việc làm, chǎm sóc sức khỏe tốt thì vị thành niên cũng rất có thể trở thành gánh nặng cho xã hội.

ii. Các yếu tố tác động qua kết quả một số nghiên cứu

1. Hành vi cá nhân có nguy cơ cao

Một trong những hành vi cá nhân có nguy cơ cao của vị thành niên là hoạt động sinh hoạt tình dục trước hôn nhân. Từ trước những nǎm 1990 cho đến 1994, hoạt động tình dục trước hôn nhân hoàn toàn bị bỏ qua trong các nghiên cứu về sức khỏe sinh sản. Các chương trình kế hoạch hóa gia đình hoàn toàn không phục vụ cho nhóm đối tượng vị thành niên và chưa kết hôn. Cùng với sự chuyển đổi các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình sang sức khỏe sinh sản, vị thành niên trở thành một trong những nhóm đối tượng phục vụ chính của chương trình. Sự phát triển về kinh tế, chất lượng chǎm sóc được cải thiện, chế độ dinh dưỡng tốt hơn là những nguyên nhân làm cho tuổi dậy thì của vị thành niên Việt Nam giảm xuống. Kết quả một số nghiên cứu cho thấy tuổi dậy thì nằm trong khoảng từ 13 đến 14 tuổi (N.Q.Anh và cộng sự, 1999; V.Q.Nhân và cộng sự, 1996). Tuy không thể đưa ra được mức giảm theo thời gian do không có những nghiên cứu tương tự ở thời gian trước, nhưng kết quả này cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu về tuổi dậy thì ở nhiều nước trên thế giới. Tuổi dậy thì trung bình ở trong khoảng từ 12,5 tuổi ở những nước công nghiệp phát triển đến 15 tuổi ở những nước đang phát triển (Becker, 1993). Đồng thời với tuổi dậy thì giảm, xu hướng kết hôn ngày càng muộn hơn khiến cho giai đoạn từ khi bắt đầu dậy thì cho tới khi kết hôn ngày càng dài ra. Đó là một trong những thuận lợi cho nữ vị thành niên trong việc tiếp tục học tập và tǎng cơ hội kiếm được việc làm sau khi tốt nghiệp. Tuy nhiên, đó cũng là một trong những nguyên nhân làm tǎng tỷ lệ có sinh hoạt tình dục trước hôn nhân hiện nay. Theo kết quả của nghiên cứu về "Vị thành niên và biến đổi xã hội" (VASC'99) do Viện Xã hội học tiến hành cho thấy khoảng 10% nam vị thành niên và 5% nữ vị thành niên đã có sinh hoạt tình dục trước hôn nhân (Đ.N.Anh, 2000). Một nghiên cứu khác đưa ra tỷ lệ là 17% số nam và 2,6% số nữ chưa kết hôn đã có quan hệ tình dục (P.T.Anh và cộng sự, 1997). Những tỷ lệ này chỉ thấp hơn một số nước trong khu vực như Thái Lan, Philippin một chút. Điều này chứng tỏ việc vị thành niên có sinh hoạt tình dục trước hôn nhân đã là một hiện tượng xã hội. Càng ngày, vị thành niên càng tự do hơn trong quan hệ tình dục, dư luận và các chuẩn mực xã hội ngày càng bớt khe khắt hơn đối với hoạt động tình dục trước hôn nhân (T. Gammeltoft và cộng sự, 1999).

Một yếu tố quan trọng khác trong nhóm các hành vi có nguy cơ cao là sử dụng biện pháp tránh thai khi có sinh hoạt tình dục. Mặc dù các chương trình sức khỏe sinh sản ở Việt nam hiện nay đã cung cấp thông tin và các dịch vụ tránh thai đến nhóm đối tượng này, nhưng do nhiều yếu tố tác động, phần lớn vị thành niên thường không sử dụng các biện pháp tránh thai để tự bảo vệ mình, nhất là ở lần sinh hoạt tình dục đầu tiên. Kết quả nghiên cứu trong số 1603 sinh viên ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cho thấy chỉ có 28% nam và 31,6% nữ có sử dụng tránh thai ở lần sinh hoạt tình dục đầu tiên và biện pháp phổ biến nhất là tính vòng kinh và xuất tinh ngoài (V.Q.Nhân và cộng sự, 1996). Kết quả của nghiên cứu VASC'99 cũng đưa ra tỷ lệ 41% thanh niên chưa kết hôn có hoạt động tình dục sử dụng biện pháp tránh thai (Đ.N.Anh, 2000). Mức độ sử dụng tránh thai cho thấy tình dục không an toàn là một vấn đề của vị thành niên hiện nay. Có nhiều lý do để giải thích cho không sử dụng tránh thai khi có sinh hoạt tình dục như thiếu hiểu biết về biện pháp tránh thai, những vấn đề của hệ thống cung ứng... Nhưng nổi bật hơn cả vẫn là nhận thức của đối tượng này trong việc tự bảo vệ mình còn rất mơ hồ (T. Gammeltoft và cộng sự, 1999).

2. Tác động của gia đình và cộng đồng

Môi trường mà vị thành niên trưởng thành có tác động rất lớn đến nguy cơ của mang thai vị thành niên. Những đứa trẻ thường xuyên sống trong đói nghèo, có trình độ học vấn thấp, thường xuyên hay phải thay đổi chỗ ở và gia đình tan vỡ thì xu hướng tham gia vào hoạt động tình dục sớm hơn và nguy cơ mang thai cao hơn những đứa trẻ khác (Kirby, 1997). Khi một gia đình không hạnh phúc thì điều đó đặc biệt ảnh hưởng đến tâm trạng của vị thành niên và môi trường xã hội không tốt sẽ là nhân tố tác động nhiều đến mang thai vị thành niên (N.T.Thơm và cộng sự, 1999). Đói nghèo cũng là một nhân tố tác động đến nguy cơ mang thai của nữ vị thành niên khi các em phải đi làm để kiếm sống và bị lạm dụng tình dục (N. X. Nghĩa và cộng sự, 1997). Vị thành niên vì những lý do nào đó mà phải bỏ học cũng có tỷ lệ mang thai cao hơn các em hiện đang đi học. Nghiên cứu VASC'99 cho thấy trong số các trường hợp đã có quan hệ tình dục, 43% em đã từng có thai ít nhất một lần. Tỷ lệ này là 51% trong số vị thành niên ngoài trường học, cao hơn rất nhiều so với chỉ 4% trong số còn đang đi học (Đ.N.Anh và cộng sự, 2000). Một nghiên cứu định tính khác đã tìm ra rằng việc lợi dụng tình dục ngày nay đang tǎng lên ở Việt Nam, hay nói cách khác, kinh tế thị trường đang can thiệp vào tất cả các mối quan hệ của con người, kể cả tình yêu, tình dục "bây giờ người ta lợi dụng nhau nhiều hơn bởi vì kinh tế thị trường đang phát triển. Nhu cầu của con người nhiều hơn, họ muốn có tiền và thanh niên Việt Nam có rất ít việc làm... vì thế họ phải khai thác nhau, những người yêu nhau, biết nhau, tất cả họ đều khai thác nhau" (T. Gammeltoft và cộng sự, 1999).

3. Giáo dục tình dục và thông tin đại chúng

Không khó khǎn trong việc tìm hiểu tại sao hoạt động tình dục vị thành niên lại thường dẫn đến có thai không mong muốn. Điều đó có liên quan đến chương trình giáo dục giới tính cho nhóm đối tượng này. Những vấn đề liên quan đến giới tính, đặc biệt là tình dục và mang thai còn tồn tại cho thấy đó là những vấn đề đặc trưng nổi bật trong xã hội hiện nay. Tại trường học, giáo dục về đạo đức chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Hơn nữa, đạo đức và nguyên tắc xử thế dạy ở trường học chưa có hiệu quả chống lại những khía cạnh bất lợi của cuộc sống ngoài xã hội mà vị thành niên được chứng kiến hàng ngày. Kết quả là phần lớn vị thành niên thiếu hiểu biết hoặc hiểu biết không đúng về những vấn đề cơ bản liên quan đến sinh sản. Một nghiên cứu KAP về sức khỏe sinh sản vị thành niên ở 1000 thanh thiếu niên thành phố Hải Phòng cho thấy chỉ có 41,6% biết rằng sau khi hành kinh thì người con gái có thể có thai ngay ở lần sinh hoạt tình dục đầu tiên và 25,7% trả lời đúng thời điểm thụ thai theo chu kỳ kinh (N.Q.Anh và cộng sự, 1999). Chính vì sự thiếu hiểu biết này là nguyên nhân dẫn đến việc mang thai ngoài ý muốn.

Bên cạnh mặt tích cực và cải cách nhanh chóng thì nền kinh tế thị trường cũng đồng thời bộc lộ những mặt trái của nó như sự phân tầng giai cấp, thất nghiệp và sự quản lý thiếu đồng bộ về một số khía cạnh vǎn hóa xã hội, nhất là các phương tiện thông tin đại chúng như các ấn phẩm, phim ảnh, video với những câu chuyện tình cảm lãng mạn và sự miêu tả những hành vi gợi tình hoặc tình dục. Thêm vào đó, còn rất nhiều sách với nội dung không lành mạnh nhập khẩu từ nước ngoài. Điều đó ảnh hưởng rất xấu đến nhận thức của vị thành niên, dẫn đến những hành vi tình dục không kiểm soát được (N.T.Thơm và cộng sự, 1999). Đáng tiếc là phần lớn các nghiên cứu được tiến hành không đề cập đến vấn đề này.

iii. Kết luận

Những nghiên cứu về sức khỏe sinh sản vị thành niên đã được tiến hành tại Việt Nam đã cho thấy có rất nhiều yếu tố tác động đến hành vi tình dục và mang thai vị thành niên trong thời gian hiện nay. Tuy nhiên, trong báo cáo này, chúng tôi chỉ tập trung phân tích một số yếu tố có liên quan đến hành vi cá nhân, hoàn cảnh gia đình và cộng đồng cũng như những áp lực xã hội có ảnh hưởng đến mang thai vị thành niên. Như kết quả của nhiều báo cáo đã cho thấy, vị thành niên là nhóm đối tượng rất dễ chịu tác động của môi trường bên ngoài dẫn đến những hành vi có nguy cơ cao như tham gia vào hoạt động tình dục từ khi còn rất trẻ, không sử dụng tránh thai khi có sinh hoạt tình dục. Tỷ lệ có sinh hoạt tình dục trước hôn nhân không thấp hơn so với một số nước có điều kiện kinh tế và vǎn hóa tương tự. Tuy hiểu biết về các biện pháp tránh thai trong nhóm đối tượng này khá cao nhưng tỷ lệ sử dụng lại rất thấp mà một trong những nguyên nhân chính là quan niệm sai lầm về tình dục, tình yêu. Thêm vào đó, các yếu tố gia đình và cộng đồng cũng có tác động rất lớn đến mang thai vị thành niên. Tuy hiện tượng này xảy ra ở mọi hoàn cảnh gia đình, cộng đồng nhưng xu hướng xuất hiện cao hơn ở những gia đình nghèo, thường xuyên có bạo lực và gia đình tan vỡ cũng như ở những cộng đồng không ổn định. Cuối cùng, với tác động của nền kinh tế thị trường, một số tác động tiêu cực của các phương tiện thông tin đã trực tiếp tác động tới vị thành niên hiện nay.

Tuy nhiên, các nghiên cứu này cũng có một số hạn chế mà hạn chế lớn nhất là tính đại diện của nghiên cứu. Những nghiên cứu trên đây không thể đại diện được cho toàn thể vị thành niên Việt Nam mà ở chỉ có thể mô tả một phần, một nhóm đối tượng đặc biệt. Do đó, kết quả của những nghiên cứu này không thể sử dụng để so sánh với xu hướng và tác động của các yếu tố đến mang thai vị thành niên với các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Điều này đòi hỏi các nhà quản lý phải quan tâm hơn và có những chiến lược đánh giá hiệu quả hơn. Trên cơ sở đó mới có thể thiết lập được các chính sách và chương trình phòng tránh mang thai vị thành niên có hiệu quả hơn.

tài liệu tham khảo

  1. Đặng Nguyên Anh và cộng sự: Vị thành niên và biến đổi xã hội. Viện Xã hội học và Hội đồng dân số, 2000.
  2. Nguyễn Quốc Anh và cộng sự: Sức khỏe sinh sản vị thành niên: khảo sát đánh giá về kiến thức, thái độ và thực hành của thành thiếu niên Hải Phòng với các vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản. Trung tâm nghiên cứu, thông tin và tư liệu dân số, 1999.
  3. Phan Thục Anh và cộng sự: Kiến thức, thái độ và hành vi sức khỏe sinh sản liên quan đến HIV/AIDS trong thanh niên ở Hà Nội: Kết quả Điều tra và Phương pháp luận. Bộ Y tế và Hội đồng dân số, 1997.
  4. Hoàng Bá và cộng sự: Tình dục vị thành niên ở Việt Nam. Khoa học xã hội, 6 (56): 57-69, 1996.
  5. Stan B.: The Determinants of Adolescent Fertility with Special Reference to Biological Variables. POPLIN, 1993.
  6. Kirby D.: No easy Answer: Research Findings on Programs to Reduce Teen Pregnancy. Washington D.C: National Campaign to Prevent Teen Pregnancy, 1997.
  7. Gammeltoft T. et al: Tình yêu của chúng em không giới hạn. NXB Thanh niên, 1999.
  8. Vũ Quí Nhân và cộng sự: Reproductive Behaviour of Unmarried Urban Students of Age 17-24 in Vietnam. Trung tâm nghiên cứu, thông tin và tư liệu dân số, 1996.
  9. Nguyễn Xuân Nghĩa và cộng sự: Sơ bộ tìm hiểu trẻ em bị lạm dụng tình dục tại Thành phố Hồ chí Minh. Bộ Y tế và Hội đồng Dân số, 1997.p