Thầy thuốc - nghề nguy hiểm
Các Website khác - 25/03/2004

(02/03/2003)"Không chỉ vi trùng, máu mủ, bệnh tật, các xác chết, nỗi đau đớn của bệnh nhân. Cuộc sống hàng ngày của người thầy thuốc còn đầy rẫy lo lắng vì áp lực công việc, vì trách nhiệm trực tiếp về tính mạng nhiều con người’’. Một người mặc blouse nửa thế kỷ - GS.TS Lê Thế Trung đã mô tả như vậy về môi trường lao động của mình, nơi ông và đồng nghiệp gặp nhiều mối nguy cho sức khoẻ.

Stress

Theo GS. Lê Thế Trung, dễ mắc stress nhất là các cán bộ y tế làm việc trong phòng cấp cứu và phẫu thuật. Yêu cầu khẩn trương của công việc và đòi hỏi trách nhiệm trước mạng sống bệnh nhân không cho phép thầy thuốc lơi là một giây trong suốt thời gian theo dõi cấp cứu (có thể kéo dài vài ngày) hoặc mổ (hàng chục giờ liền). Đây chính là nguyên nhân khiến cán bộ y tế làm công tác xử trí cấp cứu và thực hiện phẫu thuật cao luôn sống trong tâm trạng khẩn trương và lo âu.

Khảo sát của Viện Y học lao động & Vệ sinh môi trường (Hà Nội) tại một khoa hồi sức cấp cứu cho thấy, gần 23% nhân viên có điểm stress ở mức cao, 42% có điểm stress ở mức trung bình. Những người này đều bị kéo dài phản xạ thính thị vận động, giảm trí nhớ ngắn hạn và thiếu tập trung chú ý.

Kết quả theo dõi nhịp tim cũng cho thấy, sự căng thẳng xuất hiện ngay từ khi công việc bắt đầu cho đến lúc kết thúc và có xu hướng tăng lên vào cuối ca làm việc. Ở những bệnh viện lớn - nơi tiếp nhận hàng trăm ca cấp cứu mỗi ngày, các bệnh viện tâm thần hoặc trung tâm cai nghiện, tâm lý căng thẳng của nhân viên y tế càng rõ rệt.

Ngoài stress do áp lực công việc, theo TS. Đàm Viết Cương (Vụ Sức khoẻ, Ban Khoa giáo TƯ), cuộc sống của các thầy thuốc còn luôn căng thẳng bởi niềm tin quá lớn, thái độ thiếu cảm thông, thậm chí hành vi xúc phạm tinh thần và thể chất của người nhà bệnh nhân. Trong lịch sử ngành Y những năm 1990, đã có 1 bác sĩ tự vẫn vì bị đe doạ, hành hung liên tục sau khi bó tay trước 1 ca bệnh hiểm.

Lây bệnh

BS.Nguyễn Hải Hường (Viện Lao TƯ) tiết lộ, chỉ có khoảng 50% cán bộ trong viện thường xuyên dùng khẩu trang khi trực tiếp phục vụ bệnh nhân (đấy là chưa kể đến những lúc ‘’quên’’). Lý do của việc không dùng thứ bảo hộ lao động tối thiểu trong môi trường đầy vi trùng này rất đơn giản: Nhiều người bị ngộp, chỉ đeo được không quá 10 phút mỗi lúc. Và bởi, nhiều bệnh nhân cho rằng bác sĩ đeo khẩu trang là tỏ thái độ kỳ thị, coi thường họ.

Không chỉ vi trùng lao, cán bộ y tế còn có thể vô tình bị các loại virus gây viêm gan B, C, HIV xâm nhập bất cứ lúc nào (thường gọi là phơi nhiễm). Tuy chưa có thống kê toàn quốc về số thầy thuốc bị phơi nhiễm viêm gan và HIV, GS. Lê Thế Trung vẫn khẳng định con số này không nhỏ.

Còn theo khảo sát của Viện Y học lao động & Vệ sinh môi trường (Hà Nội), có đến 18-25% nhân viên y tế Thủ đô bị phơi nhiễm virus viêm gan B; 6,3% số này mắc bệnh.

Về phơi nhiễm HIV, chỉ riêng Bệnh viện Đống Đa (Hà Nội) trong năm 2002 đã có 14 nhân viên vô tình bị kim tiêm dính máu bệnh nhân AIDS đâm vào cơ thể. Tại Bệnh viện Nhiệt đới từ tháng 8/1997 đến 30/9/2002, có đến 224 trường hợp bị vật bén, nhọn như kim tiêm, dao mổ... đâm, bị máu, dịch tiết của người bệnh bắn vào mắt và vết thương trên da; có người còn bị bệnh nhân cắn.

Ngoài phơi nhiễm bệnh tật, một số nhân viên y tế làm việc trong môi trường nhiều hoá chất như trong phòng mổ (nhiều chất gây mê) còn có thể bị ảnh hưởng chức năng sinh sản, trong phòng ướp xác (nhiều chất formol) có thể mắc ung thư và nhiều bệnh nội tiết nếu thường xuyên ở trong phòng xét nghiệm (có nhiều hoá chất và máu).

Đầy là chưa kể đến nguy cơ rối loạn hệ thống cơ xương khớp (đau mỏi lưng, thắt lưng, bả vai, đầu gối, cổ) do phải nâng, nhấc, vận chuyển và giữ bệnh nhân. Nguy cơ trĩ và giãn tĩnh mạch chân do giữ nguyên tư thế liên tục suốt ca mổ. Nguy cơ dị ứng thuốc (nhất là kháng sinh) do thường xuyên làm việc trong môi trường sản xuất dược phẩm. Và nguy cơ tổn thương hệ thần kinh và mạch ngoại vi do tiếp xúc nhiều giờ trong ngày với các thiết bị y tế như X-quang, máy cobalt xạ trị mà các thầy thuốc phải gánh chịu.

Trong khi đó, theo GS. Lê Thế Trung, lương của thầy thuốc Việt Nam vẫn đang ở hạng gần thấp nhất trong bảng lương cả nước.

Điều trị khi bị phơi nhiễm HIV

- Tại chỗ: Dùng các phương tiện sẵn có tống xuất máu hoặc dịch tiết ra ngoài càng nhanh càng tốt. Rửa sạch vết thương bằng xà phòng, dùng cồn 70o hoặc dung dịch iod để sát trùng. Không dùng các chất có thể gây hoại tử hay gây bỏng đặt vào vết thương.

- Điều trị dự phòng: Nếu tiếp xúc với máu, dịch tiết của người không nhiễm HIV, không cần điều trị dự phòng. Trường hợp tiếp xúc với máu, dịch tiết của người có nguy cơ nhưng chưa xác định nhiễm HIV, cần điều trị dự phòng ngay. Làm xét nghiệm kiểm tra HIV, nếu kết quả âm tính có thể ngưng điều trị.

Nếu tiếp xúc với máu, dịch tiết của người nhiễm HIV, thời điểm bắt đầu điều trị tốt nhất là 2-3 giờ sau tai nạn; muộn nhất không quá 7 ngày. Dùng thuốc trong 1 tháng.

- Thuốc: Nếu chỉ bị xước da, không chảy máu, hoặc máu, dịch tiết bệnh nhân HIV bắn vào mũi, họng thì uống 2 loại thuốc: Zidovudin 500-600 mg/ngày, chia 2-3 lần; kết hợp uống Lamivudin 300mg/ngày, chia làm 2 lần. Nếu dùng Combivir (1 viên gồm 300mg Zidovudin và 150mg Lamivudin), uống 2 viên/ngày, chia 2 lần.

Trường hợp tổn thương sâu, chảy máu nhiều, uống thêm Indinavir 2.400 mg/ngày, chia 3 lần.

Thuốc điều trị dự phòng HIV sau phơi nhiễm hiện được dự trữ đủ dùng 3-4 ngày cho 1-3 trường hợp tại tất cả các cơ sở y tế (trước khi chuyển lên Bệnh viện Nhiệt đới điều trị tiếp). Cán bộ, nhân viên y tế và chiến sĩ công an được cấp thuốc miễn phí. Người dân bị phơi nhiễm cần có khoảng 1 triệu đồng/người cho việc mua thuốc điều trị trọn gói.

· Quảng Hạnh